1. Khái quát chung

Quyền im lặng là một quyền hợp pháp được công nhận một cách rõ ràng hoặc theo quy ước, trong nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới. Quyền im lặng là quyền của bị can, bị cáo, người bị bắt, người bị tạm giữ có quyền im lặng, không phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hay tự buộc mình có tội. 

2. Ý nghĩa quyền im lặng của bị can, bị cáo

2.1 Ý nghĩa về mặt xã hội

Quyền im lặng góp phần tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác điều tra, truy tố và xét xử. Quyền im lặng đáp ứng yêu cầu của Nhà nước và xã hội đối với việc góp phần tôn trọng, bảo vệ quyền con người; quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; đảm bảo dân chủ, xét xử công bằng, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Việc mở rộng quyền cho bị can, bị cáo là một xu hướng tiến bộ trong nền xã hội tiến tới dân chủ, công bằng về quyền con người được đề cập cao hơn. 

2.2 Ý nghĩa về mặt pháp lý

Để hạn chế việc bức cung, mớm cung và nhục hình và để tránh tình trạng oan sai. Quyền của bị can, bị cáo được mở rộng hơn cũng là xu hướng tốt. Họ sẽ có cơ hội để tự bảo vệ mình, tránh được những sai sót từ lời khai ban đầu trong điều kiện bị hạn chế quyền công dân. Với việc ghi nhận và thực hiện quyền này, bị can, bị cáo được bảo đảm thực hiện các quyền bào chữa, tự bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của Hiến Pháp và pháp luật. Quy định về quyền im lặng của bị can, bị cáo nhằm bảo đảm tính minh bạch của pháp luật, tạo sự nhận thức thống nhất trong quá trình lấy lời khai, hỏi cung.

3. Nội dung cơ bản quyền im lặng của bị can, bị cáo

3.1 Quy định chung

Điều 13 BLTTHS 2015 có quy định cụ thể như sau:
Điều 13. Suy đoán vô tội
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.
Quy định này xuất phát từ tình huống của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, khi có sự không rõ ràng trong việc xác định căn cứ của trách nhiệm hình sự, các tình tiết liên quan đến tội và lỗi của người bị buộc tội mà cả quá trình tố tụng và sự nỗ lực của các cơ quan tiến hành tố tụng đã không thể làm rõ, dẫn đến tình huống hoài nghi, có mâu thuẫn giữa các hướng giải quyết mà chính các cơ quan đó không thể khắc phục được. Để chống khuynh hướng buộc tội theo kiểu tư duy: “thà làm oan còn hơn bỏ lọt”, BLTTHS năm 2015 khẳng định rõ: những hoài nghi đó nhất thiết phải được giải quyết theo hướng có lợi cho người bị buộc tội. Đây là một nguyên tắc mà quyền im lặng của bị can, bị cáo thể hiện một cách gián tiếp được tôn trọng.
Điều 15, Điều 16 bộ luật tố tụng hình sự 2015 thì:
Điều 15. Xác định sự thật của vụ án
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.
Điều 16. Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự
Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư của LVN Group hoặc người khác bào chữa.
Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này.
Điểm e khoản 1 Điều 58; điểm c khoản 2 Điều 59; điểm d khoản 1 Điều 60; điểm h khoản 2 Điều 61 BLTTHS 2015 quy định người bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giữ, bị can và bị cáo đều có quyền trình bày ý kiến, trình bày lời khai, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Điểm b khoản 1 Điều 73 quy định người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc, người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Khoản 3 Điều 309 BLTTHS 2015 cho phép tại phiên toà, trong giai đoạn xét hỏi nếu bị cáo không trả lời các câu hỏi thì Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự tiếp tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án. Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo được đặt câu hỏi với bị cáo khác về các vấn đề có liên quan đến bị cáo.

3.2 Về chủ thể

Bộ luật TTHS 2015 ghi nhận quyền im lặng dành cho người bị buộc tội, gồm chủ thể pháp lý khác nhau, bao gồm: người bị bắt;  người bị tạm giữ;  bị can; bị cáo… Theo đó, trong quá trình tham gia tố tụng, tất cả các đối tượng trên đều có quyền “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”. Việc quy định quyền không đưa ra lời khai chống lại chính mình có thể được hiểu là người bị buộc tội có quyền không khai những điều chứa đựng thông tin bất lợi cho bản thân mình. Quy định này có thể hiểu tương đương với quyền im lặng.
Tuy nhiên, căn cứ theo nội dung điều luật, người bị buộc tội chỉ có thể từ chối đưa ra lời khai nếu sự thẩm vấn yêu cầu lời khai có chứa đựng thông tin chống lại họ hoặc buộc họ phải nhận mình có tội. Còn đối với những câu hỏi khác trong quá trình thẩm vấn, người bị buộc tội không có quyền giữ im lặng. Mặt khác, một trong các nghĩa vụ của người bị buộc tội là phải có mặt theo sự triệu tập hoặc chấp hành yêu cầu của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền, điều này có nghĩa là họ không thể từ chối tham gia cuộc hỏi cung, lấy lời khai hoặc tại phiên tòa. Suy ra, người bị buộc tội phải có mặt trong các cuộc thẩm vấn và không thể giữ im lặng trong suốt thời gian này.
Có thể thấy, khi so sánh với luật pháp các nước và luật quốc tế, quy định về quyền im lặng của Việt Nam có nội dung và phạm vi tương đối hẹp. Lý giải cho điều này, có thể xét rằng đây là loại quyền mới đối với Việt Nam, một quyền im lặng tuyệt đối dành cho người bị buộc tội có thể gây ra nhiều rào cản cho các cơ quan TTHS trong việc giải quyết vụ án. Hơn nữa, so sánh với các nước khác, lực lượng điều tra của Việt Nam không được sở hữu những công cụ điều tra hiệu quả như thỏa thuận nhận tội (plea bargain), hoạt động ngầm (undercover) hoặc gài bẫy (sting operation) mà chỉ có thể sử dụng các biện pháp như nghe lén, ghi âm ghi hình bí mật một cách hạn chế. Sự quy định quyền im lặng ở mức độ tương đối, hay còn gọi là quyền không tự buộc tội chính mình, là sự cân bằng giữa quyền cá nhân và lợi ích xã hội.
Để đảm bảo rằng quyền im lặng có thể được sử dụng và có hiệu quả trên thực tế, pháp luật TTHS quy định ba biện pháp đảm bảo pháp lý, đó là quyền được thông báo quyền của người bị buộc tội, ghi âm, ghi hình trong khi thẩm vấn và tiêu chí đánh giá tính hợp pháp của lời khai.

3.3 Về quyền được thông báo về quyền của người bị buộc tội

Chức năng này nhằm đảm bảo người bị buộc tội biết và hiểu rõ quyền của mình, bao gồm quyền im lặng, và từ đó có thể quyết định đưa ra sự lựa chọn sử dụng quyền im lặng hay không. 

3.4 Về đảm bảo pháp lý ghi âm, ghi hình bắt buộc

khoản 6 Điều 183 Bộ luật TTHS 2015 quy định mọi cuộc hỏi cung diễn ra trong cơ sở tạm giữ hoặc tại trụ sở của Cơ quan điều tra đều phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc ghi âm, ghi hình này không chỉ nhằm bảo vệ quyền của bị can, mà còn bảo vệ phía cơ quan điều tra trước các khiếu nại, tố cáo. Trong trường hợp có bất kỳ sự cáo buộc nào về việc vi phạm quyền im lặng, quyền được thông báo quyền hoặc sự sử dụng nhục hình trong hoạt động lấy lời khai, thẩm phán có thể dựa vào các tệp hình ảnh, âm thanh này để đánh giá tính hợp pháp của lời khai.
Điều 183. Hỏi cung bị can
6. Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

3.5 Đảm bảo pháp lý về căn cứ đánh giá tính hợp pháp của lời khai

Theo quy định mới, mọi chứng cứ, bao gồm lời khai, nếu không được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định đều không được xem là chứng cứ. Nói cách khác, tính hợp pháp phải được đảm bảo bằng sự tuân thủ trình tự, thủ tục theo luật định, đồng nghĩa với việc lấy lời khai phải tuân thủ thủ tục thông báo về quyền, ghi âm, ghi hình và các thủ tục khác. Bộ luật TTHS 2015 quy định quyền im lặng của người bị buộc tội một cách hạn chế về phạm vi và nội dung áp dụng, đồng thời, đưa ra những biện pháp nhằm bảo đảm tính khả thi của quyền im lặng trên thực tế.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group