Đa số các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường cũng có quy định về quyền tiếp cận thông tin của công chúng, nhấn mạnh đến việc khuyến khích các quốc gia ban hành pháp luật về tiếp cận thông tin môi trường cũng như Luật Tự do thông tin. Quyền tự do thông tin ngày càng được thừa nhận như là một quyền cơ bản của con người trong các điều ước quốc tế về nhân quyền cũng như trong các Hiệp định khu vực.

>> Luật sư tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến (24/7) gọi số: 1900.0191

1. Khái quát về quyền tiếp cận thông tin trong các Công ước của Liên hiệp quốc

Trong những văn kiện pháp lý đầu tiên về quyền con người, quyền tiếp cận thông tin không được nêu riêng biệt mà bao hàm trong quyền tự do biểu đạt bao gồm quyền tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin. Năm 1948, Đại hội đồng Liên hiệp quốc (LHQ) thông qua Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới (UDHR), theo đó, quyền tự do tư tưởng và tự do biểu đạt được bảo đảm: “Mọi người có quyền tự do tư tưởng và tự do biểu đạt; quyền này bao gồm tự do phát biểu ý kiến mà không bị can thiệp và tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin và ý tưởng thông qua bất cứ phương tiện truyền thông nào và bất kể biên giới” (Điều 19).

Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR), một Công ước có giá trị pháp lý ràng buộc, được Đại hội đồng LHQ thông qua vào năm 1966 (tại Điều 19 của Công ước) cũng đã đưa ra quy định về việc bảo đảm quyền tự do tư tưởng và tự do biểu đạt của con người tương đồng với quy định tại Điều 19 của Tuyên ngôn:

“1. Mọi người có quyền tự do tư tưởng.

2. Mọi người có quyền tự do biểu đạt; quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin dưới mọi hình thức, bất kể biên giới, hoặc truyền miệng, bằng văn bản hoặc in ấn, dưới hình thức nghệ thuật hoặc thông qua bất cứ phương tiện truyền thông nào do người đó lựa chọn.

3. Việc thực hiện các quyền trong khoản 2 của Điều này đi kèm với trách nhiệm và nghĩa vụ đặc biệt. Quyền này do đó có thể bị những hạn chế nhất định, nhưng phải là những hạn chế được quy định trong luật và cần thiết:

a) Để tôn trọng quyền hoặc uy tín của người khác;

b) Để bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, hoặc y tế hoặc đạo đức công cộng”.

Như vậy, theo quy định tại hai Công ước này, quyền tự do thông tin đã được khẳng định và đòi hỏi phải được bảo đảm tôn trọng, thực hiện trên thực tế. Nhiều học giả bình luận quyền tự do biểu đạt được Tuyên ngôn UDHR bảo vệ là một quyền có tính chất ràng buộc trên phạm vi toàn cầu như một tập quán quốc tế.

Báo cáo viên đặc biệt của LHQ về Tự do tư tưởng và Tự do biểu đạt đã liên tục dẫn chiếu đến quyền cơ bản được tiếp cận thông tin của các cơ quan công quyền. Năm 2002, Báo cáo viên đặc biệt của LHQ cùng với Đại diện của OSCE (Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu) về Tự do truyền thông và Báo cáo viên đặc biệt của OAS (Tổ chức các quốc gia Châu Mỹ) về Tự do biểu đạt, đã thông qua một nghị quyết, trong đó nêu rõ: Quyền tiếp cận thông tin của các cơ quan công quyền là một quyền con người cơ bản cần được thực hiện ở cấp độ quốc gia thông qua một hệ thống toàn diện các đạo luật (chẳng hạn các đạo luật tự do thông tin) dựa trên nguyên tắc cởi mở tối đa và trên giả định rằng, tất cả thông tin đều phải được tiếp cận chỉ ngoại trừ những ngoại lệ rất hạn hẹp. Uỷ ban của LHQ về Quyền con người cũng đã kêu gọi và khuyến nghị các quốc gia cân nhắc nghiên cứu bộ các nguyên tắc về tiếp cận thông tin – Quyền được biết của công chúng: Các nguyên tắc của pháp luật về tự do thông tin – được tổ chức phi chính phủ quốc tế hoạt động về tự do biểu đạt, ARTICLE 19, thông qua, bao gồm:

– Nguyên tắc 1: Mở thông tin tối đa (trên cơ sở luật và nguyên tắc, quy định cụ thể).

– Nguyên tắc 2: Nghĩa vụ công bố (của các cơ quan công).

– Nguyên tắc 3: Thúc đẩy Chính phủ mở (các cơ quan công tích cực thực hành chính phủ mở và xóa bỏ văn hóa bí mật trong quá trình củng cố quản trị nhà nước).

– Nguyên tắc 4: Hạn chế phạm vi miễn trừ cung cấp thông tin hay danh mục mật (danh mục này cần rõ ràng, hạn chế và thông tin bị hạn chế – nếu có – chỉ với mục đích bảo vệ quyền lợi công).

– Nguyên tắc 5: Bảo đảm quá trình tiếp cận thông tin (cơ chế cung cấp thông tin nhanh, đủ, hiệu quả và có đánh giá giám sát độc lập).

– Nguyên tắc 6: Chi phí tiếp cận thông tin (về cơ bản, người dân không phải trả chi phí hoặc chi phí quá cao cho việc yêu cầu thông tin).

– Nguyên tắc 7: Công khai các cuộc họp (cho công chúng biết về các cuộc họp của các cơ quan công, bằng nhiều hình thức phù hợp như văn bản, nói chuyện trực tiếp, thông tin đại chúng, truyền thông v.v..).

– Nguyên tắc 8: Chỉnh sửa để bảo đảm công khai thông tin (những luật không nhất quán với quyền tiếp cận thông tin cần được chỉnh sửa).

– Nguyên tắc 9: Bảo vệ cho người cung cấp thông tin.

Các tuyên bố và quan điểm nêu trên về quyền thông tin được ủng hộ bởi rất nhiều quy định pháp lý quốc tế khác. Trong những năm gần đây, đã phổ biến quan niệm việc tiếp cận thông tin môi trường, bao gồm thông tin môi trường của các cơ quan công quyền, là chìa khoá của phát triển bền vững và bảo đảm sự tham gia hiệu quả của công chúng vào quản trị môi trường. Chủ đề này lần đầu tiên được nêu lên tại Công ước Rio năm 1992 về Môi trường và Phát triển, nguyên tắc 10: “Các vấn đề môi trường được giải quyết tốt nhất với sự tham gia của tất cả các công dân có liên quan ở cấp độ thích hợp. ở cấp độ quốc gia, mỗi cá nhân phải có khả năng tiếp cận thích hợp với thông tin về các tài liệu và hoạt động nguy hiểm trong cộng đồng của mình và có cơ hội tham gia vào quá trình hoạch định chính sách. Các quốc gia phải tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích công chúng nhận thức và tham gia bằng cách phổ biến rộng rãi thông tin. Phải tạo điều kiện tiếp cận hữu hiệu thông tin về các thủ tục hành chính và tố tụng, kể cả về các biện pháp khắc phục và bồi thường”.

Từ năm 1991, ủy ban Kinh tế châu Âu của LHQ (UNECE) bắt đầu công việc thúc đẩy quyền tham gia và tiếp cận thông tin về môi trường. Công ước UNECE về Tiếp cận thông tin, Tham gia của công chúng vào quá trình ra quyết định và Tiếp cận công lý đối với các vấn đề môi trường (hay còn gọi là Công ước Aarhus) được thông qua vào tháng 6/1998 và có hiệu lực vào tháng 10/2001. Điều 4 của Công ước quy định rằng, các Chính phủ phải ban hành và thực thi pháp luật cho phép các công dân được quyền tiếp cận các thông tin (bao gồm cả các tài liệu) về môi trường do các cơ quan Chính phủ đang nắm giữ. Các thông tin về môi trường bao gồm các thông tin chi tiết về tình trạng của môi trường, các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng môi trường, tình trạng an toàn và sức khỏe của con người, điều kiện của đời sống con người, các khu vực văn hóa, các công trình bị ảnh hưởng bởi môi trường.

Công ước cũng quy định về việc các quốc gia phải quy định các thủ tục thực thi chi tiết trong pháp luật của mình. Pháp luật phải cho phép công dân được quyền yêu cầu tiếp cận thông tin mà không cần phải chỉ ra tại sao mình lại quan tâm đến thông tin đó dưới góc độ pháp lý. Các cơ quan Chính phủ phải trả lời trong thời hạn 01 tháng hoặc có thể được gia hạn tối đa lên 03 tháng. Thông tin có thể được giữ kín nếu như việc cung cấp sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính bí mật của quá trình tố tụng, đến quan hệ quốc tế, đến quốc phòng và an ninh công cộng, đến công lý, xét xử và điều tra công bằng, đến bí mật thương mại, quyền sở hữu trí tuệ, các thông tin cá nhân hoặc các thông tin được cung cấp một cách tình nguyện từ các bên thứ ba và các thông tin nhạy cảm về môi trường. Tuy nhiên, các ngoại lệ này phải được giải thích trong phạm vi hẹp và cơ quan Chính phủ phải xem xét đến lợi ích công cộng trong việc công bố thông tin. Việc từ chối cung cấp thông tin phải thực hiện bằng văn bản trong đó nêu rõ lý do từ chối. Lệ phí cung cấp thông tin nên được hạn chế ở một mức độ hợp lý. Cần phải quy định về quyền khiếu nại đến Toà án hoặc một cơ quan độc lập để cơ quan này sẽ ra phán quyết chung thẩm mang tính ràng buộc về vấn đề này.

Các cơ quan nhà nước cũng phải quy định các thủ tục về việc thu thập thông tin, công bố công khai (bao gồm cả hình thức các cơ sở dữ liệu điện tử), công bố các phân tích, báo cáo về tình trạng môi trường và ngay lập tức phải công bố các thông tin về các mối đe dọa nghiêm trọng. Công ước đã được 44 quốc gia ký kết và được 37 quốc gia phê chuẩn và gia nhập, là nhân tố quyết định yêu cầu nhiều quốc gia trong khu vực ban hành Luật Tự do thông tin. Vì vậy, cho đến nay, đã có 36 quốc gia ban hành Luật Tự do thông tin quy định toàn diện về vấn đề này. Ngoài ra, Liên minh châu Âu EU cũng đã nội luật hoá Công ước này vào một Chỉ thị của mình, do đó Công ước có giá trị áp dụng đối với các quốc gia thành viên EU.

Điều 10 về “Báo cáo công khai” của Công ước chống tham nhũng của LHQ khuyến khích các quốc gia ban hành biện pháp nhằm tăng cường khả năng tiếp cận thông tin của công chúng như một biện pháp hữu hiệu chống lại tham nhũng: “Xét đến sự cần thiết phải đấu tranh chống tham nhũng, mỗi quốc gia thành viên của Công ước, trên cơ sở phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp nước mình, áp dụng các biện pháp cần thiết để tăng cường minh bạch trong quản lý hành chính công khi cần thiết kể cả trong hoạt động tổ chức, thực hiện chức năng và ra quyết định. Các biện pháp đó, ngoài các biện pháp khác, bao gồm: (a) Ban hành những trình tự thủ tục hoặc quy định cho phép công chúng, khi thích hợp, có được thông tin về việc tổ chức, thực hiện chức năng và ra quyết định của các cơ quan hành chính mà quyền riêng tư và thông tin cá nhân vẫn được bảo vệ, cũng như có được thông tin về những quyết định và hành vi pháp lý liên quan đến công chúng; (b) Đơn giản hóa thủ tục hành chính ở những khâu thích hợp nhằm tạo điều kiện cho công chúng tiếp cận với cơ quan ra quyết định có thẩm quyền; (c) Xuất bản thông tin, có thể bao gồm báo cáo định kỳ, về nguy cơ tham nhũng trong các cơ quan hành chính nước mình”.

Ngoài ra, Điều 13 về “Sự tham gia của xã hội” quy định: “Mỗi quốc gia thành viên của Công ước, trong khả năng có thể và phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp nước mình, áp dụng các biện pháp thích hợp, nhằm thúc đẩy sự tham gia chủ động của các cá nhân và tổ chức ngoài khu vực công như xã hội dân sự, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức cộng đồng vào công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng; và nhằm nâng cao nhận thức của công chúng về sự tồn tại, nguyên nhân và tính chất nghiêm trọng cũng như sự đe doạ của tham nhũng. Sự tham gia đó cần được tăng cường thông qua các biện pháp như: (a) Tăng cường tính minh bạch trong các quy trình ra quyết định, thúc đẩy đóng góp của công chúng vào các quy trình ra quyết định; (b) đảm bảo cho công chúng được tiếp cận thông tin một cách hiệu quả”.

Như vậy, Công ước kêu gọi tất cả các quốc gia thực hiện biện pháp nhằm tăng cường tính minh bạch trong hệ thống hành chính quốc gia, bao gồm việc cân nhắc áp dụng các thủ tục hoặc quy định cho phép các thành viên của cộng đồng, khi thích hợp, có được thông tin về tổ chức, chức năng và quá trình ra quyết định của các cơ quan hành chính, trong đó có sự quan tâm thích đáng đến những lợi ích thiết yếu như sự riêng tư. Quy định này càng được củng cố tại Điều 13 về sự tham gia của xã hội, theo đó, kêu gọi các quốc gia tăng cường tính minh bạch và thúc đẩy sự đóng góp của công chúng vào quá trình ra quyết định.

2. Khái quát về quyền tiếp cận thông tin trong các Hiệp định khu vực

Hội đồng châu Âu từ lâu khuyến nghị rằng, các quốc gia thành viên phải thúc đẩy việc tiếp cận thông tin. Năm 1979, Hội đồng Nghị viện đã khuyến nghị và yêu cầu Hội đồng Bộ trưởng kêu gọi Chính phủ các quốc gia thành viên ban hành Luật về Tiếp cận thông tin. Vào năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng khuyến nghị các Chính phủ ban hành Luật Thúc đẩy quyền tiếp cận thông tin của các thể nhân và pháp nhân đối với các thông tin do các cơ quan nhà nước đang nắm giữ. Năm 1993, Hội đồng Bộ trưởng đã dự thảo và đề xuất một Công ước về Bảo vệ môi trường trong đó có quy định về việc tiếp cận các thông tin về môi trường. Năm 2002, Hội đồng Bộ trưởng chấp thuận một khuyến nghị dành cho các quốc gia thành viên về tự do thông tin. Khuyến nghị này quy định các nguyên tắc cụ thể đối với các Chính phủ trong việc ban hành Luật về Tiếp cận thông tin dựa trên nguyên tắc là mọi người đều có quyền tiếp cận các tài liệu chính thức do các cơ quan nhà nước nắm giữ; đồng thời nêu về các thủ tục tiếp cận thông tin, các trường hợp ngoại lệ và khiếu nại về việc từ chối tiếp cận thông tin. Hiện nay, một nhóm công tác đang tiến hành dự thảo một Công ước về tự do thông tin dựa trên những nguyên tắc này. ủy ban châu Âu về Nhân quyền quy định về quyền tự do ngôn luận tại Điều 1090. Cho đến nay, Tòa án Nhân quyền châu Âu không chấp thuận về việc giải thích Điều 10 theo hướng “quyền tự do ngôn luận” bao gồm và cho phép một quyền tiếp cận thông tin nói chung. Tuy nhiên, Tòa án đã chấp nhận về quyền tiếp cận thông tin hạn chế theo quy định tại Điều 8 (Quyền riêng tư cá nhân) khi việc từ chối tiếp cận thông tin có ảnh hưởng tiêu cực đến những cá nhân nhất định. Tòa án cũng thừa nhận quyền tiếp cận thông tin của các cá nhân theo quy định tại Điều 8 đối với các thông tin liên quan đến bản thân họ do các cơ quan Chính phủ nắm giữ, kể cả các cơ quan tình báo.

Liên minh châu Âu nói chung không đặt ra yêu cầu các quốc gia thành viên phải ban hành Luật Tự do thông tin. Tuy nhiên lại ban hành Chỉ thị yêu cầu các quốc gia thành viên phải ban hành Luật về Tiếp cận thông tin trong một số lĩnh vực cụ thể bao gồm bảo vệ môi trường, bảo vệ người tiêu dùng, mua sắm công và gần đây nhất là Luật về Tái sử dụng thông tin công. Nghị viện châu Âu gần đây cũng đang xem xét việc ban hành một Chỉ thị mới yêu cầu các quốc gia thành viên phải công bố công khai các dữ liệu không gian một cách miễn phí. Sau khi Chỉ thị năm 1990 về tiếp cận thông tin môi trường được ban hành, gần như tất cả các quốc gia EU đều ban hành Luật về Tiếp cận thông tin. Ngày nay, chỉ có Luxembourg, Cyprus và Malta là chưa ban hành một đạo luật toàn diện về tiếp cận thông tin, còn Italia, Hy Lạp và Tây Ban Nha mặc dù đã ban hành Luật nhưng các Luật này vẫn chưa phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Ngoài ra, Hiệp ước EU yêu cầu các cơ quan của EU phải tuân thủ các quy định về tự do thông tin và bảo vệ dữ liệu cho phép các công dân yêu cầu cung cấp thông tin từ bất kỳ cơ quan nào của EU. Điều 255 của Hiệp ước các quốc gia Liên minh châu Âu quy định: “1. Bất kỳ công dân nào của Liên minh và bất kỳ pháp nhân và thể nhân nào cư trú hoặc đăng ký trụ sở tại một quốc gia thành viên đều có quyền tiếp cận các tài liệu của Nghị viện châu Âu, Hội đồng và ủy ban châu Âu theo các nguyên tắc và điều kiện quy định tại khoản 2 và 3. 2. Các nguyên tắc và hạn chế chung trên cơ sở các lợi ích công cộng hoặc riêng tư điều chỉnh quyền tiếp cận tài liệu này sẽ do Hội đồng quyết định theo các thủ tục quy định tại Điều 251 trong thời hạn 02 năm kể từ ngày Hiệp ước Amsterdam có hiệu lực. 3. Các cơ quan nói ở trên sẽ ban hành các quy định cụ thể và chi tiết về thủ tục tiếp cận các tài liệu của mình”. Hiện nay, các cơ quan của EU đều đã ban hành các quy định về tiếp cận thông tin tương tự như các quy định trong Luật Tự do thông tin của các nước. Cơ quan giám sát của châu Âu Ombudsman sẽ thực thi việc giám sát tiếp cận thông tin và các vụ việc từ chối tiếp cận thông tin có thể được kháng cáo lên Toà án Công lý châu Âu.

Công ước của Liên minh châu Phi về Phòng, chống tham nhũng đã được ban hành vào tháng 6/2003. Điều 9 về tiếp cận thông tin quy định: “Mỗi quốc gia thành viên sẽ ban hành pháp luật và các biện pháp khác để thực thi quyền tiếp cận bất kỳ các thông tin cần thiết nào trong cuộc chiến chống lại tham nhũng và các tội phạm liên quan”. Công ước này đã được 40 trong số 53 thành viên của Liên minh châu Phi ký kết và 15 quốc gia phê chuẩn và đã có hiệu lực thi hành vào tháng 7/2006. Điều 9 của Hiến chương châu Phi về Nhân quyền và Các quyền của nhân dân quy định rằng: “Mọi cá nhân đều có quyền nhận được thông tin”. Công ước cũng quy định về việc thành lập ủy ban châu Phi về các quyền của con người. Vào tháng 10/2002, ủy ban này đã ban hành Tuyên ngôn về Các nguyên tắc tự do ngôn luận ở châu Phi với nội dung kêu gọi các quốc gia thành viên công nhận các quyền về tự do ngôn luận. Phần IV về Tự do thông tin quy định: “1. Các cơ quan nhà nước nắm giữ thông tin không phải cho bản thân các cơ quan đó mà là cơ quan lưu trữ của công chúng và mọi người đều có quyền tiếp cận thông tin với điều kiện tuân thủ các quy định minh bạch, rõ ràng của pháp luật. 2. Quyền được thông tin được pháp luật bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc sau: Mọi người đều có quyền tiếp cận thông tin do các cơ quan nhà nước nắm giữ; mọi người đều có quyền tiếp cận thông tin do các tổ chức tư nhân nắm giữ trong trường hợp thông tin đó là cần thiết cho việc thực hiện hoặc bảo vệ bất kỳ quyền công dân nào; việc từ chối cung cấp thông tin có thể bị khiếu nại đến một cơ quan độc lập hoặc tòa án; các cơ quan nhà nước, ngay cả trong trường hợp không có yêu cầu cũng phải chủ động công bố các thông tin quan trọng đối với các lợi ích thiết yếu của công chúng; những người cung cấp thông tin về các việc làm sai trái hoặc các thông tin công bố về một mối đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe, an toàn hoặc môi trường một cách ngay tình sẽ không thể bị trừng phạt trừ trường hợp việc trừng phạt là vì một lợi ích hợp pháp và là cần thiết trong một xã hội dân chủ; pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước sẽ được sửa đổi trong phạm vi cần thiết để tuân thủ các nguyên tắc về tự do thông tin. 3. Mọi người đều có quyền tiếp cận và cập nhật hoặc chỉnh sửa các thông tin cá nhân của bản thân, không kể các thông tin đó do cơ quan nhà nước hay tổ chức tư nhân nắm giữ”.

Tổ chức Cộng đồng phát triển Nam Phi bao gồm 14 quốc gia châu Phi đã ban hành Nghị định thư (năm 2001) về Chống tham nhũng (1). Điều 4 về Các biện pháp phòng ngừa quy định: “Nhằm mục đích quy định tại Điều 2 của Nghị định thư này, mỗi quốc gia thành viên cam kết ban hành các biện pháp nhằm mục đích tạo ra, duy trì và củng cố… các cơ chế thúc đẩy việc tiếp cận thông tin nhằm mục đích loại bỏ các cơ hội tham nhũng”. Tuy nhiên, Nghị định thư này vẫn chưa có hiệu lực thi hành bởi vì nó cần thêm một quốc gia nữa phê chuẩn.

Tổ chức Các quốc gia châu Mỹ đã chính thức công nhận tầm quan trọng của tự do thông tin. Vào năm 2003 và năm 2004, tổ chức này đã ban hành các Nghị quyết kêu gọi các quốc gia thành viên ban hành Luật Tự do thông tin.

Điều 13 của Công ước châu Mỹ về Nhân quyền quy định: “1. Mọi người đều có quyền tự do tư duy và tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm quyền tự do, tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến các thông tin và ý tưởng dưới tất cả các hình thức dù là bằng miệng, bằng văn bản, được in ấn, dưới hình thức nghệ thuật hoặc thông qua bất kỳ phương tiện nào do người đó lựa chọn”. Vào năm 2005, ủy ban liên Mỹ về Nhân quyền đã ra phán quyết rằng, Chilê đã vi phạm Điều 13 do đã không cung cấp các thông tin về môi trường. Hiện nay Tòa án liên Mỹ về nhân quyền đang tiến hành thụ lý và xét xử vụ việc này. Vào tháng 10/2000, ủy ban đã ban hành Tuyên ngôn về Các nguyên tắc tự do ngôn luận. Nguyên tắc số 4 về Quyền tiếp cận thông tin quy định: “4. Tiếp cận thông tin do Nhà nước nắm giữ là một quyền cơ bản của mọi người. Các quốc gia có nghĩa vụ đảm bảo quyền này được thực thi một cách đầy đủ. Nguyên tắc này chỉ cho phép các trường hợp ngoại lệ rất hạn chế trong trường hợp có một mối nguy hiểm đáng kể và thực sự đe dọa đến an ninh quốc gia trong các xã hội dân chủ và các ngoại lệ này phải được quy định rõ trong pháp luật”. Ngoài ra, Nguyên tắc số 3 cũng quy định rằng, mọi người đều có quyền tiếp cận thông tin về bản thân mình cho dù thông tin đó do các cơ quan nhà nước hay các tổ chức tư nhân nắm giữ.

Tuyên ngôn Chapultepec được ban hành tại Hội nghị Hemisphere về Tự do ngôn luận tại Mexico vào tháng 3/1994 kêu gọi công nhận sự cần thiết của tự do ngôn luận như một phần thiết yếu của một xã hội tự do và dân chủ. “3. Các cơ quan nhà nước, theo quy định của pháp luật có nghĩa vụ công khai các thông tin do công chúng yêu cầu một cách hợp lý và kịp thời”. Tuyên ngôn đã được các nhà lãnh đạo của 29 quốc gia và 3 vùng lãnh thổ ký kết. Trong số đó, khoảng 12 quốc gia đã ban hành Luật Tự do thông tin.

Hiến chương về Nhân quyền của ả Rập được ban hành tại Hội nghị thượng đỉnh các nguyên thủ quốc gia các nước trong Liên đoàn Các quốc gia ả Rập tại Tunisia vào tháng 5/2004. Hiến chương này đã thay thế Hiến chương năm 1994 (Hiến chương năm 1994 đã không có hiệu lực thi hành bởi vì không được bất kỳ quốc gia thành viên nào phê chuẩn). Hiến chương mới đã được các quan sát viên trong ủy ban Nhân quyền của LHQ khen ngợi là một bước tiến bộ đáng kể so với Hiến chương năm 1994. Điều quan trọng là Hiến chương mới đã sửa đổi các quyền tự do ngôn luận truyền thống quy định trong Tuyên ngôn về Nhân quyền của LHQ, trong đó quy định một cách chi tiết và cụ thể hơn về quyền được thông tin. Điều 32 quy định: “a) Hiến chương này đảm bảo quyền thông tin và quyền tự do ngôn luận, quyền được nêu quan điểm cũng như quyền được tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến các thông tin và ý tưởng bằng bất kỳ phương tiện nào mà không bị giới hạn. b) Các quyền và tự do nói trên sẽ được thực hiện phù hợp với các giá trị nền tảng của xã hội và chỉ bị giới hạn trong các trường hợp cần thiết để đảm bảo sự tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác hoặc bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng và sức khỏe cộng đồng hoặc đạo đức”. Hiến chương này đã được một số quốc gia ký kết nhưng vẫn chưa có hiệu lực thi hành do chưa có đủ 7 quốc gia phê chuẩn theo quy định.

Khối thịnh vượng chung là một tổ chức gồm 53 quốc gia mà trước đây là thuộc địa của đế chế Anh. Vào năm 1980, Khối thịnh vượng chung đã ban hành một Nghị quyết khuyến khích các quốc gia thành viên tăng cường quyền tiếp cận thông tin của các công dân. Năm 1999, Bộ trưởng Pháp luật các nước thuộc Khối thịnh vượng chung khuyến nghị các quốc gia thành viên ban hành về Luật Tự do thông tin dựa trên các nguyên tắc của việc công bố thông tin thông qua thúc đẩy một nền văn hóa cởi mở, hạn chế các trường hợp ngoại lệ không công bố thông tin, lưu trữ và ghi lại quá trình quản lý cũng như quyền được khiếu nại trong trường hợp bị từ chối cung cấp thông tin. Vào năm 2003, Ban Thư ký của Khối thịnh vượng chung đã ban hành Dự thảo Luật mẫu về Tự do thông tin. Dự thảo này đã đưa ra các quy định chi tiết cho hệ thống các Nghị viện khác nhau dựa trên Luật Tự do thông tin của Canada, úc và các quốc gia khác thuộc Khối.

Cho đến nay, 12 quốc gia thuộc Khối thịnh vượng chung đã ban hành Luật Tự do thông tin và trên 20 quốc gia khác đang trong quá trình nghiên cứu, xem xét ban hành Luật này.

Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và Tổ chức Phát triển và Hợp tác kinh tế (OECD) đã đưa ra một Sáng kiến phòng chống tham nhũng dành cho khu vực châu á -Thái Bình Dương và giành được sự đồng thuận rộng rãi của các quốc gia trong khu vực. Sáng kiến đã đưa ra “Kế hoạch hành động khu vực châu á -Thái Bình Dương” và nhận được sự đồng thuận của 25 quốc gia mặc dù kế hoạch này không mang tính ràng buộc. Sáng kiến này đã đưa ra các nguyên tắc với một số khuyến nghị cụ thể nhằm tăng cường tính minh bạch, trong đó có khuyến nghị: “thực hiện các biện pháp đảm bảo quyền tiếp cận của công chúng đối với các thông tin thích hợp”, thủ tục mua sắm công minh bạch, các nguồn ngân sách của các đảng chính trị, báo cáo công chúng về kiểm toán và các nỗ lực phòng, chống tham nhũng cũng như việc công bố tài sản và trách nhiệm của các quan chức nhà nước.

(**) Bài viết này có tham khảo Báo cáo Tự do thông tin thế giới năm 2006; Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin năm 2008 của Uỷ ban thông tin và truyền thông, UNESCO; Báo cáo nghiên cứu về Luật Tiếp cận thông tin của các nước Bắc Âu năm 2009.

(1) Nghị định thư này đã được 14 quốc gia thành viên ký kết trong đó có 8 quốc gia đã phê chuẩn.

ThS Nguyễn Quỳnh Liên – Bộ Tư pháp

Nguồn: Tạp chí nghiên cứu lập pháp

Như vậy, có thể thấy quyền tiếp cận thông tin của người dân, doanh nghiệp đã được cộng đồng quốc tế nhìn nhận một cách tương đối toàn diện. Về phía Việt Nam, như đã biết, Hiến pháp năm 2013 đã quy định “quyền tiếp cận thông tin” là quyền cơ bản của công dân. Cụ thể hóa nội dung này, ngày 06/04/2016, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật tiếp cận thông tin, trong đó tập trung vào các nội dung như sau:

– Việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân.

– Nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin.

– Trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân.

Theo đó, phân theo mức độ tiếp cận, thông tin được chia làm 3 loại:

– Thông tin không được tiếp cận, bao gồm:

+ Thông tin thuộc bí mật nhà nước (những thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ và các lĩnh vực khác theo quy định của luật).

+ Thông tin mà nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về cuộc họp nội bộ của cơ quan nhà nước; tài liệu do cơ quan nhà nước soạn thảo cho công việc nội bộ.

Trường hợp thông tin thuộc bí mật nhà nước được giải mật thì công dân được tiếp cận có điều kiện hoặc tiếp cận tự do.

– Thông tin được tiếp cận có điều kiện, bao gồm:

+ Thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh được tiếp cận trong trường hợp chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó đồng ý.

+ Thông tin liên quan đến bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân được tiếp cận trong trường hợp được người đó đồng ý; thông tin liên quan đến bí mật gia đình được tiếp cận trong trường hợp được các thành viên gia đình đồng ý.

Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, người đứng đầu cơ quan nhà nước quyết định việc cung cấp thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình trong trường hợp cần thiết vì lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng theo quy định của luật có liên quan mà không cần có sự đồng ý theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.

– Thông tin được tiếp cận tự do, bao gồm thông tin không thuộc 2 nhóm kể trên.

(Căn cứ pháp lý: Điều 5, 6, 7 Luật tiếp cận thông tin năm 2016)

Thông tin được tiếp cận theo 2 cách sau:

– Cơ quan nhà nước công khai.

– Cơ quan nhà nước cung cấp thông tin theo yêu cầu.

(Căn cứ pháp lý: Điều 10 Luật tiếp cận thông tin năm 2016)

(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ b)ến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)