1 Quy định chung về quyết định giám đốc thẩm
Trong quá trình xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, thì quyết định giám đốc thẩm có vị trí quyết định toàn bộ quá trình này. Nếu kháng nghị là một hành vi pháp lý làm phát sinh một thủ tục mới (thủ tục giám đốc thẩm) thì quyết định giám đốc thẩm là hành vi chấm dứt thủ tục này.
Quyết định giám đốc thẩm là một văn bản do Hội đồng giám đốc thẩm ban hành theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, nhằm xác định tính hợp pháp hay không hợp pháp của bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị.
Quyết định giám đốc thẩm được quy định tại điều 394 BLTTHS năm 2015 như sau :
“Điều 394. Quyết định giám đốc thẩm
1. Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định giám đốc thẩm nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Quyết định giám đốc thẩm có các nội dung:
a) Ngày, tháng, năm và địa điểm mở phiên tòa;
b) Họ tên các thành viên Hội đồng giám đốc thẩm;
c) Họ tên Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phiên tòa;
d) Tên vụ án mà Hội đồng đưa ra xét xử giám đốc thẩm;
đ) Tên, tuổi, địa chỉ của người bị kết án và những người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quyết định giám đốc thẩm;
e) Tóm tắt nội dung vụ án, phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị;
g) Quyết định kháng nghị, căn cứ kháng nghị;
h) Nhận định của Hội đồng giám đốc thẩm, trong đó phải phân tích những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng nghị;
i) Điểm, khoản, điều của Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự mà Hội đồng giám đốc thẩm căn cứ để ra quyết định;
k) Quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm.”
Nếu Hội đồng giám đốc thẩm của Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao hoặc Toà án quân sự trung ương thì tên của từng Thẩm phán được ghi như đối vởi bản án phúc thẩm, có khi ghi cả chức danh có tính chất quản lý như Chánh toà, Phó Chánh toà; những người tham gia phiên toà như đại diện Viện kiểm sát, Thư ký phiên toà đều được ghi ở phần mở đầu quyết định giám đốc thẩm. Còn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, chỉ ghi người chủ toạ còn số lượng và tên các thành viên khác thì không ghi. Riêng quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh lại ghi đầy đủ các thành viên cùng với chức danh của họ.
Các phần khác của quyết định giám đốc thẩm như: nội dung vụ án, quá trình xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, nhận xét và quyết định về cơ bản cũng không khác bản án; có những quyết định giám đốc thẩm quá dài không cần thiết, nó không còn ý nghĩa là một quyết định nữa.
2 Bàn về phạm vi của quyết định giám đốc thẩm
Theo quy định tại Điều 387 Bộ luật tố tụng hình sự năm , thì Hội đồng giám đốc thẩm phải xem xét toàn bộ vụ án mà không chỉ hạn chế trong nội dung kháng nghị.
Thực tiễn giám đốc thẩm có ý kiến trái ngược nhau về vấn đề này.
Ý kiến thứ nhất cho rằng, Hội đồng giám đốc thẩm có thể quyết định cả những vấn đề mà kháng nghị không đề cập theo cả hướng có lợi hoặc không có lợi cho người bị kết án và những người tham gia tố tụng khác (cả người có kháng nghị và người không có kháng nghị).
Ý kiến thứ hai, cũng là quan điểm chính thống hiện nay cho rằng Hội đồng giám đốc thẩm phát hiện thấy cũng không được ra quyết định theo hướng không có lợi đối với họ.
Mặc dù Điều 387 Bộ luật tố tụng hình sự quy định Hội đồng giám đốc thẩm phải xem xét toàn bộ vụ án mà không chỉ hạn chế trong nội dung của kháng nghị, nhưng như vậy không có nghĩa là Hội đồng giám đốc thẩm muốn quyết định như thế nào cũng được mà phải tuân theo những nguyên tắc được quy định ở trình tự giám đốc thẩm.
Giám đốc thẩm chỉ là một hoạt động của giám đốc xét xử. Việc xem xét toàn bộ vụ án là nhiệm vụ của Ưỷ ban thẩm phán khi xét xử giám đốc thẩm vì ưỷ ban thẩm phán cũng là một cấp xét xử nên cũng phải có nhiệm vụ giám đốc việc xét xử của Toà án cấp dưới. Giữa “xem xét” và “quyết định” là hai vấn đề khác nhau và giữa “xét xử” với “quyết định” cũng khác nhau. Xem xét để đi. đến quyết định cho chính xác, còn quyết định như thế nào thì phải đúng pháp luật, quyết định chỉ là hệ quả của xem xét, ngoài ra còn có thể có những hệ quả khác như kiến nghị, rút kinh nghiệm…
Như vậy, có quyết định kháng nghị mới có phiên toà giám đốc thẩm, phiên toà giám đốc thẩm được triệu tập là để xét tính hợp pháp của quyết định kháng nghị. Do đó trước hết Hội đồng giám đốc thẩm phải xem xét và quyết định nội dung của kháng nghị. Đối với những phần của vụ án không có kháng nghị, Hội đồng giám đốc thẩm cũng phải xem xét, nhưng chỉ được quyết định theo hướng có lợi cho người bị kết án (tương tự như Hội đồng xét xử phúc thẩm) còn đối với trường hợp phát hiện bản án có sai lầm cần phải sửa lại theo hướng không có lợi cho người bị kết án, thì Hội đồng giám đốc thẩm phải yêu cầu nguời có quyền kháng nghị tiến hành kháng nghị bổ sung chứ không được quyết định ngay theo hướng đó.
Xem xét và quyết định là hai vấn đề khác nhau, điều luật quy định phải xem xét toàn bộ vụ án là vì xét xử giám đốc thẩm là một hoạt động của giám đốc xét xử nên trong khi xét xử giám đốc thẩm nếu phát hiện có sai lầm khác mà . kháng nghị chưa đề cập thì yêu cầu người có quyền kháng nghị bổ sung. Việc Hội đồng giám đốc thẩm được quyết định theo hướng có lợi cho người bị kết án mặc dù không có kháng nghị theo hướng đó còn là thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, không chỉ ở trình tự giám đốc thẩm mà ở cả trình tự phúc thẩm. Cũng vì thế nên Bộ luật tố tụng hình sự hạn chế việc kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được tiến hành trong thời hạn một năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
3 Các quyết định giám đốc thẩm
Khi xét xử giám đốc thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm có thể ra các quyết định sau:
3.1 Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật
Điều 389 BLTTHS năm 2015 quy định . Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị
Hội đồng giám đốc thẩm không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị khi xét thấy bản án, quyết định đó có căn cứ và đúng pháp luật.
Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật là không chấp nhận hoàn toàn kháng nghị. Ví dụ kháng nghị theo hướng cho người bị kết án được hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm xét thấy không thể cho người bị kết án hưởng án treo nên đã giữ nguyên bản án đã có hiệu lực pháp luật là phạt tù giam đối với người bị kết án. Nếu Hội đồng giám đốc thẩm chấp nhận một phần kháng nghị thì không thể giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật được mà rơi vào trường hợp sửa bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Ví dụ kháng nghị theo hướng giảm hình phạt và cho người bị kết án được hưởng án treo, nhùng Hội đồng giám đốc thẩm chỉ giảm hình phạt mà không cho hưởng án treo. Trong trường hợp vụ án có nhiều người và kháng nghị cũng đối với nhiều người thì Hội đồng giám đốc thẩm có thể chấp nhận kháng nghị đối với người này mà không chấp nhận kháng nghị đối với người khác thì cũng thuộc trường hợp sửa bản án chứ không thuộc trường hợp không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án đã có hiệu lực pháp luật, vì suy cho đến cùng thì bản án có hiệu lực pháp luật vẫn bị sửa.
3.2 Huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án;
Điều 392 BLTTHS năm 2015 quy định Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án nếu có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 của Bộ luật này.
Việc Hội đồng giám đốc thẩm huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án, có thể huỷ một phần hoặc toàn bộ bản án đó và đình chỉ vụ án đối với một hoặc tất cả những người bị kết án tuỳ thuộc vào bản án hoặc quyết định có hiệu lực sai lầm nhiều hay sai lầm ít
Khi huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án, Hội đồng giám đốc thẩm tuỳ từng trường hợp cụ thể mà giải quyết luôn các hậu quả pháp lý của việc đình chỉ vụ án. Ví dụ: nếu đình chỉ vụ án trong trường hợp không có sự việc phạm tội thì trong quyết định giám đốc thẩm phải ghi rõ người đã bị kết án được hưởng những quyền lợi gì và cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội nào phải giải quyết đối với họ. Nếu đình chỉ vụ án trong trường hợp hành vi không cấu thành tội phạm thì quyết định giám đốc thẩm phải ghi rõ có cần xử lý hành chính hay không, nếu cần thì giao cho cơ quan Nhà nước nào xử lý hoặc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại v.v… Căn cứ để huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực có nội dung khác nhau, nên hậu quả pháp lý của nó cũng khác nhau.
Trường hợp trong vụ án có đồng phạm hoặc người bị kết án về nhiều tội phạm khác nhau mà kháng nghị chỉ đề cập đến một người hoặc một tội thì Hội đồng giám đốc thẩm chỉ có thể huỷ một phần bản án đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án đối với một hoặc một số người có kháng nghị thì vụ án đó vẫn còn đối với những ngưỡi khác hoặc đối với tội khác. Vì vậy, trong quyết định giám đốc thẩm cần phải ghi rõ huỷ phần nào, đối với ai, đồng thời phải ghi rõ giữ nguyên phần nào của bản án đối với ai.
3.3 Huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại
Điều 391 BLTTHS năm 2015 quy định về Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại
“Hội đồng giám đốc thẩm hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại nếu có một trong các căn cứ quy định tại Điều 371 của Bộ luật này. Nếu hủy để xét xử lại thì tùy trường hợp, Hội đồng giám đốc thẩm có thể quyết định xét xử lại từ cấp sơ thẩm hoặc cấp phúc thẩm.
Trường hợp xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo thì Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định tạm giam cho đến khi Viện kiểm sát hoặc Tòa án thụ lý lại vụ án.”
Việc Hội đồng giám đốc thẩm huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại chỉ trong phạm vi có kháng nghị. Nếu người bị kết án nào hoặc phần nào của bản án không bị kháng nghị thì Hội đồng giám đốc thẩm không được huỷ để điều tra lại hoặc xét xử lại
Nếu Hội đồng giám đốc thẩm quyết định theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không cần phải xét xử lại mà có thể quyết định ngay, nhưng nếu cần tăng hình phạt, tăng bồi thường, chuyển tội danh nặng hơn, áp dụng điều khoản của bộ luật hình sự theo hướng nghiêm khắc hơn thì phải có kháng nghị theo hướng đó. Còn việc điều tra lại có thể có kết quả điều tra lại theo hướng có lợi, nhưng cũng có thể theo hướng không có lợi cho người bị kết án. Do đó phải có kháng nghị thì Hội đồng giám đốc thẩm mới có thể huỷ bản án để điều tra lại được.
3.4 Sửa bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Khi xét kháng nghị, Hội đồng giám đốc thẩm cũng có quyền sửa bản án hoặc quyết định bị kháng nghị (tức là quyết định ngay ở cấp giám đốc thẩm) nếu xét thấy bản án hoặc quyết định có hiệu lực có sai lầm.
Điều 393 BLTTHS năm 2015 quy định Sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
“Hội đồng giám đốc thẩm sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi có đủ các điều kiện:
1. Các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã rõ ràng, đầy đủ;
2. Việc sửa bản án, quyết định không làm thay đổi bản chất của vụ án, không làm xấu đi tình trạng của người bị kết án, không gây bất lợi cho bị hại, đương sự.”
Các quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm chỉ được coi là có giá trị khi nó được biểu quyết theo đa số. Đối với Hội đồng giám đốc thẩm của Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao và của Toà án quân sự trung ương phải được đa số (2/3) thành viên tán thành, còn ở Uỷ ban thẩm phán Toà án cấp tỉnh và Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải có 2/3 số thành viên tham gia và được quá nửa tổng số thành viên tán thành thì mới có giá trị.
Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến luật hình sự, Hãy gọi ngay: 1900.0191, để được Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến.
Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự – Công ty luật LVN Group (biên tập)
Luật LVN Group xin cảm ơn !!