1. Thanh khoản ngân hàng

Theo định nghĩa của ủy ban Basel về giám sát ngân hàng: “Thanh khoản của ngân hàng là khả năng của ngân hàng đó để tăng thêm tài sản và đáp ứng các nghĩa vụ nợ khi đến hạn mà không bị thiệt hại quá mức”. Như vậy thanh khoản của một ngân hàng liên quan đến tiền mặt và các dòng lưu chuyển tiền tệ để thực hiện các nghĩa vụ thanh toán tại một thời điểm.
Dưới góc độ tài sản: “Thanh khoản là khả năng chuyển hóa thành tiền của tài sản và ngược lại”. Dưới góc độ Ngân hàng, thanh khoản được định nghĩa: “Là khả năng ngân hàng đáp ứng đầy đủ và kịp thời các nghĩa vụ tài chính phát sinh trong quá trình hoạt động giao dịch như chi trả tiền gửi, cho vay, thanh toán và các hoạt động giao dịch tài chính khác” (Ngân hàng Thương mại- NXB Thống kê- 2009).
Một Ngân hàng có tình hình thanh khoản tốt nếu ngân hàng đó giữ nhiều tài sản thanh khoản, dễ dàng chuyển sang tiền mặt hoặc có khả năng huy động thêm nguồn vốn với thời gian và chi phí thấp để đáp ứng nhu cầu vốn khi cần thiết, tại bất kể thời điểm nào.

2. Rủi ro thanh khoản

2.1 Khái niệm rủi ro thanh khoản

“Rủi ro thanh khoản là nguy cơ không thể thực hiện được các nghĩa vụ thanh toán, theo đó việc không thể thực hiện này sẽ kéo theo những hậu quả không mong muốn” (Duttweiler, 2010).
Rủi ro thanh khoản là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân hàng thiếu khả năng chi trả, không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền hoặc không có khả năng vay mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ ngân hàng nào là bảo đảm khả năng thanh toán đầy đủ. Do đó, ngân hàng hoặc có sẵn lượng vốn khả dụng trong tay, hoặc có thể tiếp cận dễ dàng các nguồn vốn vay mượn từ bên ngoài với chi phí hợp lý và đúng thời điểm; hoặc có thể nhanh chóng bán bớt một số tài sản để đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh cũng và nhu cầu thanh khoản đa dạng của khách hàng.

2.2 Hệ quả của mất thanh khoản trong hệ thống ngân hàng

Hệ thống ngân hàng đóng vai trò cơ bản như là người tạo thanh khoản cho nền kinh tế thông qua các hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi, cho vay và các hoạt động tài chính khác. Do đó, khi một ngân hàng gặp rủi ro thanh khoản sẽ có ảnh hưởng đến cả hệ thống của Ngân hàng nói riêng cũng như hoạt động của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Như là:
– Rủi ro thanh khoản có thể dẫn đến phá sản một ngân hàng tại một thời điểm mặc dù ngân hàng đó vẫn đảm bảo kinh doanh có lợi nhuận
Do nhu cầu thanh khoản tại một thời điểm vượt quá mức dự trữ của một Ngân hàng hoặc các Tài sản Có của Ngân hàng chưa kịp chuyển đổi cho hoạt động thanh khoản. Tình trạng thiếu thanh khoản có thể đánh giá là rủi ro rất nguy hiểm đối với một ngân hàng.
– Rủi ro thanh khoản có thể làm cho các ngân hàng thiếu hụt tạm thời về thanh khoản
Khi thiếu hụt tạm thời về thanh khoản, các Ngân hàng phải tìm cách để nguồn bổ sung thanh khoản bằng việc vay mượn từ những ngân hàng khác hoặc vay NHTW để giải quyết các nhu cầu về vốn.. Tình trạng thiếu hụt tạm thời về thanh khoản có thể gây hiệu ứng không tốt, dẫn đến thanh khoản của ngân hàng nhanh chóng cạn kiệt và ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng chi trả.
– Rủi ro thanh khoản có nguy cơ làm giảm uy tín của ngân hàng
Do bất cân xứng thông tin trong giao dịch giữa khách hàng và ngân hàng, khi các biểu hiện thiếu thanh khoản xuất hiện sẽ nhanh chóng dẫn đến hiện tượng khách hàng rút tiền hàng loạt để bảo toàn vốn. Điều này làm các ngân hàng cạn kiệt thanh khoản thậm chí phá sản.
– Rủi ro thanh khoản của ngân hàng có hiệu ứng lan truyền và có khả năng gây đổ vỡ toàn hệ thống
Các ngân hàng thực hiện các khoản vay mượn lẫn nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong mối quan hệ biện chứng và tương hỗ. Khi một ngân hàng không đủ khả năng chi trả các khoản nợ, sẽ làm ảnh hưởng đến các Ngân hàng khác và có khả năng kéo theo sự sụp đổ của toàn hệ thống.

3. Quản trị thanh khoản

3.1 Khái niệm quản trị thanh khoản

Từ khái niệm về thanh khoản và rủi ro thanh khoản ta thấy rằng Quản trị thanh khoản là việc quản lý có hiệu quả cấu trúc tính thanh khoản (tính lỏng) của tài sản và quản lý tốt cấu trúc danh mục nguồn vốn nhằm đạt được mục tiêu tài sản và nguồn vốn có tính thanh khoản cao. Một nguồn vốn có tính thanh khoản cao khi chi phí huy động thấp và thời gian huy động nhanh. Một tài sản có tính thanh khoản cao khi chi phí chuyển hóa thành tiền thấp và khả năng chuyển hóa ra tiền nhanh.
Một cách khái quát hơn, quản trị rủi ro thanh khoản nhằm đáp ứng kịp thời đầy đủ nhu cầu thanh khoản của ngân hàng với chi phí thấp. Qua đó cho thấy quản trị rủi ro thanh khoản có tính chất vô cùng quan trọng đối với ngân hàng nói riêng và mở rộng ra là ảnh hưởng gần như đến toàn bộ nền kinh tế vì nếu tình trạng thanh khoản không tốt có thể ảnh hưởng đến gần như toàn bộ hoạt động của ngân hàng bao gồm:
– Chức năng trung gian tín dụng – huy động vốn và cho vay;
– Chức năng trung gian thanh toán;
– Chức năng cung ứng các dịch vụ ngân hàng..
Như các loại rủi ro khác, rủi ro thanh khoản luôn tồn tại trong nội tại hoạt động của ngân hàng. Đó là sự lựa chọn của ngân hàng giữa việc đảm bảo thanh khoản và khả năng sinh lời. Do đó việc quản trị thanh khoản phải thực hiện thường xuyên để đảm bảo cân bằng giữa hai mục tiêu an toàn và hiệu quả. Theo thông lệ tốt nhất về quản trị khả năng thanh khoản của các ngân hàng, chính sách thanh khoản cần được xây dựng bởi các nhà quản lý cao cấp nhất, trong đó xác định trạng thái thanh khoản thông qua các chỉ số phản ánh mức thanh khoản của từng ngân hàng. Ngoài ra để duy trì nguồn vốn ổn định, chính sách thanh khoản cần đảm bảo quy mô, cấu trúc của nguồn vốn và sự đa dạng các loại vốn huy động. Ngân hàng có nguồn vốn lớn sẽ dễ dàng đối phó với những biến động trong huy động vốn và thực hiện cho vay một cách an toàn.
Ngoài việc đo lường và quản lý các yêu cầu về vốn, để đối phó với các vấn đề thanh khoản đòi hỏi các nhà quản lý rủi ro phải thực hiện các đánh giá về thị trường, dự báo các trường hợp có thể xảy ra sự suy giảm về thanh khoản, từ đó xây dựng kịch bản đối phó trong tình huống xảy ra khủng hoảng.
Thanh khoản ngân hàng vượt ra khỏi phạm vi của một ngân hàng, do đó  quản lý thanh khoản đòi hỏi phải có sự giám sát thường xuyên của Ngân hàng trung ương (NHTW). Các cơ quan giám sát thể hiện vai trò của mình trong việc kiểm tra tính tuân thủ các nguyên tắc quản lý rủi ro, đồng thời đánh giá hiệu quả chính sách đo lường, theo dõi rủi ro thanh khoản của các NHTM, ngăn ngừa sự suy giảm khả năng thanh khoản có thể lan truyền tới cả hệ thống.
Nội dung của hoạt động Quản trị rủi ro thanh khoản cũng giống như quản trị các loại rủi ro khác, bao gồm: nhận dạng rủi ro, phân tích rủi ro, đo lường rủi ro, kiểm soát, phòng ngừa và tài trợ rủi ro. như:

3.2 Nhận dạng rủi ro thanh khoản

Một số dấu hiệu cho thấy một Ngân hàng đang gặp rủi ro về thanh khoản
– Sự biến động giá của cổ phiếu khi thị giá cổ phiếu của ngân hàng đang giảm vì sự kỳ vọng của nhà đầu tư vào ngân hàng đang giảm;
– Ngân hàng áp dụng mức lãi suất cao hơn mức lãi suất thị trường để huy động vốn.;
– Ngân hàng đang bán gấp tài sản và sẵn sàng chịu lỗ từ việc bán tài sản này; đồng thời việc bán tài sản này diễn ra thường xuyên;
– Ngân hàng buộc phải từ chối một số khoản vay khả thi của khách hàng hoặc Ngân hàng không có khả năng giải ngân đúng hẹn và đầy đủ các cam kết tín dụng,
– Ngân hàng vay NHTW với khối lượng lớn và thường xuyên.
Các vấn đề nghiêm trọng về thanh khoản chỉ có thể phát sinh khi số tiền gửi được rút ra quá mức bình thường và không dự tính trước. Điều đó xảy ra khi:
– Người gửi tiền lo ngại về khả năng thanh toán của ngân hàng này so với ngân hàng khác;
– Sự sụp đổ của một ngân hàng làm những người gửi tiền mất niềm tin vào khả năng thanh toán của ngân hàng;
– Sự đột ngột chuyển hướng ưu tiên đầu tư từ tiền gửi ngân hàng sang các tài sản tài chính phi ngân hàng (như trái phiếu kho bạc, trái phiếu công ty, cổ phiếu thương phiếu), rút tiền đầu tư vào bất động sản…
– Sự bất ổn của hệ thống chính trị như: Chiến tranh, bạo loạn, sự mất lòng tin của người dân về tính ổn định của đồng tiền..

3.3 Phân tích rủi ro thanh khoản

Phân tích rủi ro thanh khoản để xác định được những nguyên nhân gây ra rủi ro nhằm tìm ra biện pháp hữu hiệu từ đó góp phần phòng ngừa rủi ro thanh khoản.
Thanh khoản có vấn đề của một ngân hàng thương mại có thể do các nguyên nhân cơ bản sau:
Một là, ngân hàng vay mượn quá nhiều các khoản tiền gửi ngắn hạn từ các tổ chức, cá nhân hoặc các định chế tài chính khác; sau đó chuyển hóa chúng thành những tài sản đầu tư dài hạn, dẫn đến mất cân đối về kỳ hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn.
Hai là, sự thay đổi của lãi suất có thể tác động đến cả người gửi tiền và người vay vốn. Khi lãi suất giảm, một số người rút vốn khỏi ngân hàng để đầu tư vào nơi có tỷ suất sinh lợi cao hơn; còn những người đi vay tích cực tiếp cận các khoản tín dụng vì lãi suất thấp hơn trước. Như vậy lãi suất thay đổi sẽ ảnh hưởng đến trạng thái thanh khoản của ngân hàng.
Ba là, do ngân hàng có chiến lược quản trị rủi ro thanh khoản không phù hợp và kém hiệu quả như: các chứng khoán đang sở hữu có tính thanh khoản thấp, dự trữ của ngân hàng không đủ cho nhu cầu chi trả.

3.4 Đo lường rủi ro thanh khoản

Khả năng và yêu cầu về thanh khoản được thể hiện qua đo lường cung thanh khoản và cầu thanh khoản. Theo lý thuyết về quản trị NHTM của Peter S.Rose, trạng thái thanh khoản của ngân hàng được xác định thông qua mô hình Cung – Cầu về thanh khoản.
Cung về thanh khoản: Cung thanh khoản là các khoản vốn làm tăng khả năng chi trả của ngân hàng, là nguồn cung cấp thanh khoản cho ngân hàng bao gồm:
– Các khoản tiền gửi sẽ nhận được (S1)
– Thu nhập từ việc cung cấp các dịch vụ (S2)
– Các khoản tín dụng sẽ thu về (S3)
– Bán các tài sản đang kinh doanh và sử dụng (S4)
– Vay mượn từ thị trường tiền tệ (S5)
Cầu về thanh khoản: Cầu về thanh khoản là nhu cầu vay vốn cho các mục đích hoạt động của ngân hàng, các khoản làm giảm quỹ của ngân hàng. Thông thường trong lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng, những hoạt động tạo ra cầu về thanh khoản bao gồm:
– Khách rút tiền từ tài khoản (D1)
– Đề nghị vay vốn của của khách hàng (D2)
– Thanh toán các khoản phải trả khác (D3)
– Chi phí cho quá trình tạo ra sản phẩm và dịch vụ ngân hàng (D4)
– Thanh toán cổ tức cho cổ đông (D5)

4. Kiểm soát – Phòng ngừa rủi ro thanh khoản

4.1 Tài trợ rủi ro thanh khoản

Khi đã xảy ra rủi ro thanh khoản, trước hết cần theo dõi, xác định chính xác những tổn thất về tài sản, nguồn nhân lực hoặc về giá trị pháp lý. Sau đó, cần thiết lập các biện pháp tài trợ rủi ro thanh khoản thích hợp. Các biện pháp có thể thực hiện:
– Vay ngắn hạn NHNN và các tổ chức tín dụng khác, bán hoặc repo giấy tờ có giá qua thị trường mở, thị trường chứng khoán, bán ngoại tệ. Có thể chấp nhận vay với lãi suất cao hoặc bán tài sản thanh khoản (giấy tờ có giá, ngoại tệ) với giá thấp hơn giá thị trường;
– Đẩy mạnh huy động vốn, phát hành giấy tờ có giá, có thể chấp nhận lãi suất huy động cao;
– Hạn chế cam kết cho vay mới, ngừng giải ngân tín dụng;
– Tích cực thu hồi nợ quá hạn.

4.2 Mô hình quản trị thanh khoản

Cũng giống như việc quản trị các loại rủi ro khác, quản trị rủi ro thanh khoản cũng có mô hình tổ chức như sau:
(Nguồn: Rudolf Duttweiler, 2009)
Quản trị rủi ro thanh khoản do Ủy ban quản lý tài sản Nợ – Có (ALCO) đảm nhiệm. Chức năng chính của Ủy ban ALCO trong quản trị thanh khoản là:
– ALCO quyết định chỉ số yêu cầu thanh khoản: dư nợ vay/ tiền gửi. chỉ số cấu trúc tiền gửi…. các hạn mức yêu cầu thanh khoản.
– Ban hành các quy chế, quy định điều hành thanh khoản đồng bộ với các loại rủi ro khác.

4.3 Một số cuộc khủng hoảng và bài học kinh nghiệm

Luận văn đưa ra một số dẫn chứng về một số cuộc khủng hoảng xảy ra trên thế giới từ đó cho thấy tầm quan trọng trong việc quản trị thanh khoản của hệ thống ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản ở Argentina năm 2000: Năm 2000, Argentina thông báo kế hoạch cắt giảm chi tiêu và tìm kiếm sự giúp đỡ từ IMF. Chính phủ Argentina cho rằng đầu tư của khối Doanh nghiệp gia tăng nếu tăng thanh khoản của hệ thống Ngân hàng, giảm thuế đối với mặt hàng vốn và tăng thuế đối với mặt hàng tiêu dùng. Về mặt tài khóa, Chính phủ áp thuế lên các giao dịch tài chính để tăng thu nhập. Tuy nhiên, những hành động này đều có kết quả đi ngược lại với sự mong đợi. Việc nới lỏng dự trữ bắt buộc tại các Ngân hàng với mục đích ban đầu là làm tăng thanh khoản nhưng thực tế đã làm giảm chất lượng tín dụng và giảm khả năng thu hút vốn của các ngân hàng. Bên cạnh đó là sự mất niềm tin nghiêm trọng của công chúng, nhà đầu tư nước ngoài vào chính sách tiền tệ của Nhà nước.
Từ tháng 01 đến tháng tháng 11 năm 2001, 15 tỷ đô đã bị rút ra tại tài khoản của các Ngân hàng. Tháng 11/2001 người dân hoài nghi và đã rút 1,2 tỷ USD từ tài khoản Ngân hàng. Tháng 12/2001, Chính phủ ra quy định chủ tài khoản chỉ được phép rút 1000USD/tháng/tài khoản và đến tháng 02/2002 lượng tiền được phép rút chỉ còn 500USD/tháng/tài khoản. Các Ngân hàng thiếu tiền mặt nghiêm trọng vì người dân bắt đầu rút tiền hàng loạt 100 triệu USD mỗi ngày. Tháng 04/2002, các Ngân hàng được yêu cầu đóng cửa vô thời hạn.
Bài học rút ra: Ngân hàng cần thường xuyên cập nhật sự thay đổi của các chính sách cũng như tình hình nội tại của quốc gia, của thế giới. Từ đó lập ra những phương án quản trị rủi ro ứng với những giả định có thể xảy đến trong tương lai: phương án tạo nguồn dự trữ, phương án tạo nguồn thanh khoản..Mặt khác, sự thay đổi chính sách của các cấp quản lý cũng cần phù hợp và cân nhắc có sự tham vấn của Ngân hàng- chủ thể và trung gian tài chính trong hệ thống tài chính của một quốc gia; đồng thời có tính đến việc ổn định và tạo niềm tin vào Chính phủ, vào Ngân hàng trong công chúng.
Rủi ro thanh khoản ở các NHTM Nga năm 2004: Rủi ro thanh khoản ở Nga bắt đầu từ tháng 07/2004. Ngày 09/07/2004 Guta Bank- một Ngân hàng lớn của Nga thông báo tạm khóa các tài khoản tiền gửi, đóng cửa 76 chi nhánh và ngừng hoạt động hơn 400 máy ATM. Ngày 10/07/2004, người dân đổ xô đi rút tiền ở các Ngân hàng khác vì lo sợ tình trạng tương tự. Ngày 16/07/2004, các Ngân hàng từ chối cấp tín dụng cho nhau, lãi suất tiền gửi tăng đáng kể song khách hàng vẫn tiếp tục rút tiền ồ ạt. Bên cạnh đó, Chính phủ phải áp dụng chính sách phạt 10% nếu rút tiền trước hạn. Ngân hàng Trung ương Nga giảm tỷ lệ dự trữ tiền mặt từ 7% xuống 3,5% để đáp ứng đủ nhu cầu thanh khoản.
Theo các chuyên gia, khủng hoảng xảy ra do hệ thống Ngân hàng Nga có  quá nhiều ngân hàng, trong đó phần lớn là các tổ chức tài chính nhỏ tồn tại bằng các hoạt động bất hợp pháp (90% Ngân hàng ở đây có số vốn dưới 10tr USD). Sự quản lý thiếu tính hệ thống này chưa tạo được niềm tin của người gửi tiền và rất dễ xảy ra tình trạng câu kết, thao túng trong hệ thống.
Bài học rút ra: Cần tạo niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống Ngân hàng, cần có sự thống nhất phối hợp giữa các Ngân hàng trong hệ thống để phòng ngừa rủi ro thanh khoản có thể xảy ra, ảnh hưởng tới toàn hệ thống Ngân hàng.
Rủi ro thanh khoản ở Anh: Nothern Rock là Ngân hàng thương mại ở tốp trung bình của Anh, trong lĩnh vực hoạt động thế chấp nhà đất là Ngân hàng lớn thứ 5 và có lịch sử hoạt động hơn 100 năm. Một số thông tin đã công khai về việc Ngân hàng cho vay thế chấp tràn lan và đang gặp khó khăn, khan hiếm tiền mặt thanh khoản. Hệ quả của thông tin này là hàng ngàn người gửi tiền tiết kiệm tại Ngân hàng đã xếp hàng từ sáng tới tối tại 76 Chi nhánh của Ngân hàng để rút tiền. Ngay lập tức giá cổ phiếu của Ngân hàng giảm 31,46% kéo theo sự sụt giảm của đồng bảng Anh nghiêm trọng. NHTW Anh hỗ trợ lượng cung tiền cho Ngân hàng, Bộ Tài chính khẳng định Nothern Rock là Ngân hàng an toàn, làm ăn có lãi. Tuy nhiên, lượng người đến rút tiền tại Ngân hàng không suy giảm và Ngân hàng rơi vào trạng thái đối mặt với rủi ro thanh khoản thực sự
Bài học rút ra: Thanh khoản của các tài khoản thế chấp là một nhân tố quan trọng, các Ngân hàng cần cân nhắc đến các khoản đảm bảo tiền vay, có phương án cho vay hiệu quả và nguồn thu nợ ổn định. Tránh tạo hoang mang và mất niềm tin trong công chúng, người gửi tiền và đầu tư.
Trân trọng!
Bộ phận tư vấn pháp luật dân sự – Công ty Luật LVN Group