1. Giới thiệu tác giả Chu Xuân Minh

Cuốn sách “100 câu hỏi giải quyết tranh chấp thừa kế tại tòa án” do Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao Chu Xuân Minh làm chủ biên.

Tập thể tác giả biên soạn gồm: TS. Sỹ Hồng Nam; TS. Phạm Văn Lợi; NCS. Vũ Minh Giám; ThS. Nguyễn Tử Duy; ThS. Nguyễn Xuân Lượt; ThS. Chu Hoàng Hải Quỳnh; ThS. Chu Hoàng Linh; CN. Hoàng Thị Kim Oanh.

 

2. Giới thiệu hình ảnh sách

Sách 100 câu hỏi giải quyết tranh chấp thừa kế tại tòa án

100 câu hỏi giải quyết tranh chấp thừa kế tại tòa án

Tác giả: Chủ biên Chu Xuân Minh

Nhà xuất bản Tư Pháp

 

3. Tổng quan nội dung sách

Cuốn sách “100 câu hỏi giải quyết tranh chấp về thừa kế tại Tòa án” là 100 vướng mắc thường gặp trong thực tiễn, một số vướng mắc đã được nêu và thảo luận tại các chương trình trao đổi nghiệp vụ Tòa án. Việc tập hợp, chỉnh lý 100 câu hỏi này góp phần nâng cao kiến thức, kinh nghiệm cho những người tham gia vào việc giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án và nhằm tuyên truyền, phổ biến pháp luật giải quyết tranh chấp về thừa kế tới bạn đọc. – Ngoài ra, cuốn sách còn có một số tình huống giải quyết tranh chấp về thừa kế để phục vụ cho việc nghiên cứu của sinh viên, học viên tại các cơ sở đào tạo về tư pháp.

Cuốn sách được biên tập với cấu trúc như sau:

Phần thứ nhất. 100 câu hỏi giải quyết tranh chấp về thừa kế tại Tòa án

Phần thứ hai. Một số tình huống giải quyết tranh chấp về thừa kế

Phần thứ ba. Văn bản pháp luật về thừa kế

1. Thông tư số 81/TANDTC ngày 24/7/1981 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế

2. Pháp lệnh Thừa kế năm 1990

3. Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế

4. Phân thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995

5. Phần thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005

6. Phần thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015

 

4. Đánh giá bạn đọc

100 vướng mắc thường gặp trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về thừa kế tại tòa án, một số vướng mắc đã được nêu và thảo luận tại các chương trình trao đổi nghiệp vụ Tòa án đã được các tác giả hệ thống trong cuốn sách.

Cuốn sách “100 câu hỏi giải quyết tranh chấp thừa kế tại tòa án” trở thành tài liệu tham khảo hữu ích trong học tập đối với sinh viên, học viên ngành luật, phục vụ hiệu quả trong công tác thực tiễn tư vấn và giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình.

 

Kết luận: Nội dung cuốn sách là tài liệu tham khảo hữu ích cho những người làm công tác thực tiễn, nghiên cứu và bạn đọc.

Hy vọng những chia sẻ trên đây của chúng tôi sẽ là một nguồn tư liệu đánh giá chất lượng sách hiệu quả tin cậy của bạn đọc. Nếu thấy chia sẻ của chúng tôi hữu ích, bạn hãy lan tỏa nó đến với nhiều người hơn nhé! Chúc các bạn đọc sách hiệu quả và thu được nhiều thông tin hữu ích từ cuốn sách “100 câu hỏi giải quyết tranh chấp thừa kế tại tòa án”.

 

Dưới đây là trích dẫn một số nội dung trong cuốn sách để bạn đọc tham khảo:

Tài sản nhà nước cấp cho thân nhân người có công với cách mạng có phải di sản thừa kế của người có công với cách mạng không?
Trả lời:
Sau khi người có công với cách mạng chết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới quyết định cho thân nhân của họ hưởng tài sản theo quy định của pháp luật, do vậy, tài sản được cấp này không phải là di sản của người có công với cách mạng. Đây là tài sản chung của các thân nhân người có công với cách mạng. Sao vậy, tài sản trên không phải là di sản thừa kế của người có công với cách mạng.
Khi giải quyết vụ án trong trường hợp này hiện nay có thể áp dụng, vận dụng điểm 2 Mục III Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình:
2. Tài sản được Nhà nước cấp cho thân nhân của ngưởi có công với cách mạng
Nếu sau khi người có công với cách mạng đã chết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới quyết định cho thân nhân của họ hưởng tài sản theo quy định của pháp luật và giữa các thân nhân của người đó có tranh chấp về tài sản và yêu cầu Toà án giải quyết, thì đây là vụ án dân sự yêu cầu chia tài sản chung. Khi giải quyết cần phân biệt như sau:
a) Nếu trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có ghi cụ thể tên người được hưởng tài sản, thì chỉ người có tên mới được hưởng tài sản đó.
b) Nếu trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền không ghi rõ người được hưởng tài sản gồm những người cụ thể nào mà chỉ ghi cấp chung cho thân nhân của người có công với cách mạng, thì thân nhân của người đó được hưởng chung. Việc xác định ai là thân nhân của người có công với cách mạng trong trường hợp cụ thể được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Ví dụ: Theo quy định tại Điều 5 của Quyết định số 20/2000/QĐ-TTg ngày 03/02/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc hỗ trợ người hoạt động cách mạng từ trước cách mạng tháng Tám năm 1945 cải thiện nhà ở thì thân nhân của người có công với cách mạng là vợ, chồng, các con của người đó.
Nếu trong văn bản pháp luật Chính phủ không quy định cụ thể ai là thân nhân của người có công với cách mạng mà chỉ quy định chung là thân nhân thì thân nhân của người có công với cách mạng gồm có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, người trực tiếp nuôi dưỡng người có công với cách mạng.
 
Câu hỏi: Một thành viên trong họ có quyền khởi kiện tranh chấp liên quan đến nhà thờ họ hay không?
Trả lời:
Nhà thơ có từ lâu đời hoặc nhà thờ do các thành viên trong họ đóng góp công sức và tiền của xây dựng nên là tài sản thuộc quyền sở hữu chung của những người trong họ, nên không thể trở thành di sản của người trưởng họ hoặc của bất cứ cá nhân nào. Nếu có tranh chấp thì giải quyết theo nguyện vọng chung của các thành viên trong họ. Theo quy định của pháp luật thì họ không phải là chủ thể có tư cách pháp nhân.
Khoản 1 Điều 3 Nghị quyết 01/2020/NQ-HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về tài sản chung của dòng họ đã quy định: 1. Thành viên dòng họ có quyền khởi kiện vụ án tranh chấp về tài sản chung của dòng họ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của dòng họ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
 
Câu hỏi: Trong hợp đồng tín dụng có ghi người thừa kế là tên người vợ (hoặc người chồng) của người vay tiền. Vậy người có trách nhiệm trả nợ chỉ là người vợ (hoặc người chồng) có tên trong hợp đồng hay tất cả các thừa kế có nghĩa vụ trả tiền?
Trả lời:
Điều 615 Bộ luật dân sự năm 2015 về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại quy định:

Điều 615. Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại

1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.

3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.

Như vậy, nếu hợp đồng có điều khoản xác định rõ người thừa kế là người có trách nhiệm trả nợ thay người vay hoặc hợp đồng dẫn chiếu đến một điều khoản có nội dung tương tự thì người ký với tư cách người thừa kế phải trả nợ thay, kể cả họ có phải là vợ, chồng của người vay hay không.
Nếu người vợ hoặc chồng của người vay không ký vào hợp đồng này với tư cách người thừa kế thì họ không phải chị trách nhiệm riêng; họ chỉ chịu trách nhiệm cùng với các người thừa kế khác theo quy định chung về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại (Điều 615 Bộ luật dân sự năm 2015 nêu trên).
Nếu hợp đồng không có điều khoản nêu rõ trách nhiệm trả nợ thay của người thừa kế, người ký tên dưới một người thừa kế không phải là vợ hoặc chồng của người vay thì họ (người ký tên, vợ hoặc chồng của người vay) cũng không phải trả nợ thay các người thừa kế khác. Đây là trường hợp hợp đồng quy định không rõ ràng nên việc giải thích hợp đồng theo hướng có lợi cho người yếu thế (bên vay).
Dưới đây là hướng dẫn xác định thời hiệu khởi kiện về thừa kế tại Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP:
2.2. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
a) Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 01/7/1996, thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao “hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế”.
Khi xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện.
b) Đối với trường hợp thừa kế mở từ ngày 01/7/1996 thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 648 của Bộ luật Dân sự.
2.3. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản.
a) Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 01/7/1996 thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao “hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế”. Nếu nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản được phát sinh trước ngày 01/7/1991 có liên quan đến nhà ở thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện.
b) Đối với trường hợp thừa kế mở từ ngày 01/7/1996 thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tải sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự. Việc xác định thời hiệu khởi kiện phải căn cứ vào quy định tại các Điều 639, 640 và 418 của Bộ luật Dân sự và hướng dẫn tại các tiểu mục 1.2, 1.3, 1.4 mục 1 Phần I của Nghị quyết này.
2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:
a.1) Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.
a.2) Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thảo thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.
a.3) Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.
b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo Ủy quyền… thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.