Cảm ơn câu hỏi của bạn, sau đây Luật sư của LVN Group xin phép được trả lời như sau:
1.Quy định của pháp luật về quyền nuôi con sau khi ly hôn
Đầu tiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Bộ luật dân sự 2015 thì: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định.” Như vậy, em bạn bị coi là mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự khi và chỉ khi có quyết định của Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
Khi người chồng có yêu cầu ly hôn với người vợ theo điều 24 Luật hôn nhân gia đình :”Trong trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn. Việc chỉ định của Toà án phải căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự”.
Với vấn đề ở đây là cả vợ và chồng đều muốn giành quyền nuôi con mà người vợ đã mất năng lực hành vị dân sự thì theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, quy định về cách xác định người có quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cái sau ly hôn, cụ thể như sau:
+ Ưu tiên sự thỏa thuận giữa vợ và chồng về người trực tiếp nuôi con;
+ Nếu không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ quyết định giao cho một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con;
+ Nếu con trên 07 tuổi thì phải xem xét đến nguyện vọng của con;
+ Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con
=>Trong trường hợp này thì đối với phía toà án sẽ ưu tiên cho vợ chồng tự thoả thuận và thương lượng. Nếu không thương lượng được thì toà án sẽ can thiệp . Đối với con dưới 36 tháng tuổi thì sẽ giao trực tiếp cho người mẹ để nuôi , vì người mẹ bị mắc bệnh tâm thần và không đủ điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng thì sẽ giao quyền cho người cha. Vậy nên nếu gia đình muốn giành quyền nuôi con với người bố, thì đầu tiên hãy thoả thuận thử và chứng minh khả năng điều kiện chăm sóc tốt nhất cho đứa trẻ.
2. Nghĩa vụ và quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Căn cứ Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, có quy định về những quyền và nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con, cụ thể như sau:
+ Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
+ Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
+ Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Tuy nhiên, nếu cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Như vậy, dù không thể giành được quyền nuôi con thì người còn lại vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng và tạo những điều kiện thuận lợi, để góp phần nuôi dưỡng con cái phát triển theo chiều hướng tốt nhất.
Ngoài ra, về vấn đề cấp dưỡng, cách xác định mức cấp dưỡng được căn cứ theo Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cụ thể như sau:
+ Mức cấp dưỡng do người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng hoặc người giám hộ của người đó thỏa thuận căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.-
+ Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
3. Chia tài sản ly hôn đối với người mắc bệnh tâm thần
Khi ly hôn, theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình; thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi; tài sản riêng của ai thì sẽ thuộc quyền sở hữu của người đó; trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Pháp luật không có quy định khác biệt về chia tài sản chung của vợ chồng khi một người bị bệnh tâm thần nên khi được giải quyết ly hôn; vẫn sẽ được chia tài sản như bình thường.
Trường hợp có tài sản riêng cần có chứng cứ; chứng minh số tài sản riêng đó thuộc về mình. Trong trường hợp có sự sáp nhập; trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó; trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Về nguyên tắc; việc chia tài sản sẽ ưu tiên cho 2 bên thỏa thuận. Tuy nhiên; vì một bên bị tâm thần nên không thể thỏa thuận được nên tòa án sẽ chia tài sản theo Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình; tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố như công sức đóng góp của mỗi người trong việc tạo lập tài sản chung, hoàn cảnh của mỗi bên; lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền; nghĩa vụ của vợ chồng,…
Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật theo giá trị; nếu bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
Phần tài sản mà người bị tâm thần được chia sẽ giao cho người giám hộ của người bị tâm thần quản lý. Nếu có con chung thì sẽ được giao cho người có đủ điều kiện trực tiếp nuôi dưỡng.
4.Trong trường hợp người vợ chữa khỏi bệnh , có được giành lại quyền nuôi con
Theo điều 84 Luật hôn nhân gia đình có quy định về thay đổi người trực tiếp sau khi ly hôn
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;
b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.
Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.
Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
Với trường hợp khi người mẹ đã chữa khỏi bệnh và có xác nhận của bệnh viện và con trên 7 tuổi có nhu cầu về ở với mẹ thì toà án sẽ xem xét và quyết định cho người mẹ quyền nuôi con. Hoặc vợ chồng sẽ thoả thuận lại về quyền nuôi con
5.Nguyên tắc giải quyết chia quyền sử dụng đất của vợ chồng sau khi ly hôn
Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai bên, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
– Trong trường hợp chỉ có một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng.
– Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần sử dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
– Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
– Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất đai.
– Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy định về việc chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình. Cụ thể:
- Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.0191 để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group.
Rất mong nhận được sự hợp tác.
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình – Công ty luật LVN Group.