>> Luật sư tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp gọi số:1900.0191
MỤC LỤC
A MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1.1. Sự cần thiết việc so sánh các quy định của Luật Doanh Nghiệp Việt Nam và Luật Trung Quốc về Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần.
1.2. Căn cứ khoa học và thực tiễn
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
2.2. Mục tiêu cụ thể
3. Phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
3.2 Phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp luận
4.2 Phương pháp nghiên cứu
B NỘI DUNG
I Những vấn đề cơ bản về công ty
1.1 Khái niệm chung
1.2 Đặc điểm của Công ty
1.3 Sự ra đời của Công ty và luật công ty
1.4 Các loại hình công ty phổ biến trên thế giới
1.4.1 Công ty đối nhân
1.4.2 Công ty đối vốn
1.5 Các đặc điểm cơ bản của Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần trên thế giới
1.5.1 Công ty trách nhiệm hữu hạn
1.5.2 Công ty cổ phần
II Những vấn đề chung về công ty theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật Trung Quốc
2.1 Các quy định của pháp luật hai nước về thành lập và đăng ký kinh doanh
2.1.1 Quyền thành lập và quyền góp vốn
2.1.2 Đăng ký kinh doanh
III Doanh nghiệp tư nhân
3.1 Khái niệm
3.2 Đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp tư nhân
3.2.1 Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ
3.2.2 Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn trước mọi khoản nợ phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp tư nhân
3.3 Quy chế pháp lý về hình thành và chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp tư nhân
3.3.1 Điều kiện về ngành nghề kinh doanh
3.3.2 Điều kiện về tên doanh nghiệp
3.3.3 Thủ tục đăng ký kinh doanh
3.3.4 Chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp tư nhân
IV Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
4.1 Khái niệm, đặc điểm
4.1.1 Khái niệm
4.2 Tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên
4.2.1 Hội đồng thành viên
4.2.2 Giám đốc (Ban giám đốc)
4.2.3 Ban kiểm soát
4.3 Vốn và chế độ tài chính
4.3.1 Chuyển nhượng phần vốn góp
4.3.2 Mua lại phần vốn góp
4.3.3 Tăng, giảm vốn điều lệ
4.3.4 Phân chia lợi nhuận
V Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
5.1 Khái niệm và đặc điểm
5.2 Tổ chức và quản lý công ty
5.3 Các quy định đặc biệt đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
VI Công ty cổ phần
6.1 Khái niệm và đặc điểm
6.2 Cổ phần và cổ phiếu
6.3 Vốn và chế độ tài chính
6.4 Tổ chức quản lý công ty
6.4.1 Đại hội đồng cổ đông
6.4.2 Hội đồng quản trị
6.4.3 Giám đốc (tổng giám đốc)
6.4.4 Ban kiểm soát
VII Giải thể và thanh lý doanh nghiệp
7.1 Giải thể
7.2 Chia tách
7.3 Sáp nhập doanh nghiệp
C KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I Kết luận
II Kiến nghị
A MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1.1. Sự cần thiết việc so sánh các quy định của Luật Doanh Nghiệp Việt Nam và Luật Trung Quốc về Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần.
Quan hệ Việt Nam Trung Quốc:
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có quan hệ gần gũi và truyền thống lâu dài trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc. Trong những năm qua, quan hệ Việt – Trung đã không ngừng phát triển cả bề rộng và chiều sâu trên mọi lĩnh vực, đã hình thành khuôn khổ quan hệ mới với rất nhiều Hiệp định, thoả thuận làm cơ sở pháp lý cho việc đi sâu hợp tác ngày càng có hiệu quả, đem lại lợi ích thiết thực cho cả hai nước. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay,cả hai nước đều trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới.Quan hệ hai nước đang đứng trước cơ hội phát triển ổn định và lâu dài.
Mặc dù trong quá khứ lẫn hiện tại, hai nước cũng có nhiều điểm bất đồng, tuy nhiên, nhìn chung, quan hệ hai nước ngày càng bền chặt.
Kinh tế Trung Quốc:
Mặc dù, Việt Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng về văn hoá, kinh tế, chính trị nhưng Trung Quốc vẫn là nước lớn, có tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, đặc biệt năm 2007, Trung Quốc đạt mức tăng trưởng kinh tế 11,4%, mức cao kỷ lục trong 13 năm qua, lên gần 24.662 tỷ nhân dân tệ (tương đương 4.430 tỷ USD).
Cục Thống kê quốc gia Trung Quốc (NBS), mức tăng trưởng kinh tế năm 2007 cao hơn 0,3% điểm phần trăm so với mức tăng trưởng 11,1% của năm 2006.
Và đây cũng là năm thứ năm liên tiếp tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng hơn 10%. GDP tính theo quý trong năm 2007 như sau: quý 1 tăng 11,1%, quý 2 tăng 11,9%, quý 3 tăng 11,5%, quý 4 tăng 11,2%.
Với tốc độ tăng như hiện nay thì đến năm 2020, Trung Quốc sẽ là quốc gia có tốc độ phát triển đứng thứ ba trên thế giới sau Mỹ và Nga.
Kinh tế Việt Nam:
Với chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã mở cửa nền kinh tế trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, khuyến khích quan hệ hợp tác kinh tế với các nước khác, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với từng thời kỳ phát triển.
Điểm nổi bật trong việc thực thi chính sách mở cửa để phát triển kinh tế trong thời gian qua đó là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), mở ra thời kỳ mới trong quan hệ hợp tác phát triển kinh tế của Việt Nam, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội cạnh tranh trong một môi trường bình đẳng với thế giới.
Một số thành tựu nổi bật về kinh tế có thể kể đến trong thời gian qua của Việt Nam là:
Kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối cao và cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam liên tục tăng từ 639 USD/người/năm vào năm 2004 lên 835 USD/người/năm vào năm 2007.
Tổng số vốn đầu tư vào phát triển kinh tế tăng lên đáng kể. Theo số liệu thống kê của Tổng Cục Thống Kê năm 2006 thì tổng số vốn đầu tư vào phát triển kinh tế theo giá thực tế trong những năm từ 2000 – 2006 đã tăng lên một cách mạnh mẽ, đặc biệt là trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước, tổng số vốn đầu tư của năm 2006 là 150.500 (tỷ đồng), tăng gấp 4,5 lần so với năm 2000 (34.594 tỷ đồng).
Đứng đầu danh sách các nhà đầu tư đến từ Đài Loan (22 dự án số vốn 91.076.031 $)và Trung Quốc (52 dự án. 65.274.382$)
năm 2007 là năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2006-2010, mặc dù gặp nhiều khó khăn thách thức, trong đó có những yếu tố không lường trước được, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo sát sao và khẩn trương của Chính phủ, sự nỗ lực của các ngành, các địa phương nên hầu hết các lĩnh vực kinh tế then chốt đều đạt được những kết quả vượt trội so với năm 2006 và tạo đà cho những năm tiếp theo phát triển mạnh hơn.
Luật Trung Quốc và Luật Việt Nam.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thể chế luật pháp của Trung Quốc cũng không ngừng được cải thiện nhằm phù hợp với cuộc sống thiết thực của người dân. Đặc biệt từ khi Trung Quốc gia nhập tổ chức thương mại kinh tế thế giới (WTO), quốc hội Trung Quốc đã ban hành rất nhiều bộ luật mới. Các bộ luật này được đánh giá có tính pháp lý chặt chẽ, vừa có tính thống nhất. Quy định của các văn bản luật cũng như các quy định dưới luật rất rõ ràng, ngắn gọn. Rất nhiều các thủ tục hành chính của Trung Quốc đã được rút ngắn lại nhằm đáp ứng quyền lợi tối đa của nhà đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước và các hộ kinh doanh cá thể.
Tuy nhiên, không giống với pháp luật Việt Nam, pháp luật Trung Quốc lại ban hành từng bộ luật riêng lẻ đối với mỗi loại hình doanh nghiệp.Ví dụ như: Luật Công ty áp dụng cho công ty cổ phần và trách nhiệm hữu hạn, Luật doanh nghiệp tư nhân lại áp dụng cho doanh nghiệp tư nhân, Luật đầu tư nước ngoài lại được áp dụng cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Với phương châm đơn giản hóa các thủ tục hành chính, Luật Việt Nam đã thực sự đi vào cuộc sống của người dân. Trong những năm gần đây, Quốc Hội cũng ban hành mới và sửa đổi hàng loạt các bộ luật nhằm góp phần làm hoàn thiện hơn, kiện toàn hơn hệ thống luật pháp của Việt Nam. Đặc biệt năm 2005, Quốc hội Việt Nam đã ban hành luật doanh nghiệp.Bộ luật này đã được đánh giá rất cao bởi các qui định đã được áp dụng thống nhất đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Từ đó giúp cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bình đẳng với các doanh nghiệp trong nước khi thực hiện các thủ tục đầu tư. Nếu như trước đây sau khi thành lập doanh nghiệp thì các doanh nghiệp phải tiến hành thực hiện các thủ tục sau cấp phép tại cơ quan thuế và cơ quan công an thì hiện nay thay vào đó các doanh nghiệp chỉ cần đến phòng đăng ký kinh doanh là có thể thực hiện các thủ tục cần thiết đó.
Tóm lại, bên cạnh một số quy định khác biệt của Luật Trung Quốc, nhìn chung Luật Trung Quốc và Việt Nam có nhiều điểm tương đồng.
Kết luận: Trong xã hội toàn cầu hoá hiện nay, kiến thức pháp luật luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Làn song đầu tư vào Việt Nam trong vài năm trở lại đây rất mạnh mẽ. Theo số liệu khảo sát của tổng cục thống kế thì Trung Quốc được xếp hàng đầu trong các quốc gia có nhiều dự án đầu tư vào Việt Nam. Trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, các doanh nghiệp Trung Quốc cần phải tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam, tìm hiểu thị trường Việt Nam. Cũng giống như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam muốn đầu tư kinh doanh tại thị trường Trung Quốc cũng cần phải tìm hiểu quy định, trình tự cũng như các thủ tục của pháp luật Trung Quốc để tiến hành đầu tư một cách hiệu quả và an toàn.
Tuy nhiên, trên thực tế, đã có rất nhiều doanh nghiệp Trung Quốc cũng như Việt Nam đã gặp phải rất nhiều khó khăn khi đầu tư vào nước bạn do hạn chế kiến thức về mặt luật pháp.
Vì vậy, việc so sánh các quy định của Luật Doanh Nghiệp Việt Nam và Luật Trung Quốc về Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần là hết sức cần thiết. Việc so sánh này sẽ giúp cho doanh nghiệp hai nước hiểu rõ hơn về các quy định pháp luật của nhau để hạn chế những rủi do trong kinh doanh.
Mặt khác, trong qúa trình tìm hiểu thủ tục thành lập doanh nghiệp của Trung Quốc, bản thân tôi có thể học hỏi rất nhiều ưu điểm của pháp luật Trung Quốc khi áp dụng vào pháp luật nước ta, đồng thời khắc phục những quy định còn hạn chế.
1.2. Căn cứ khoa học và thực tiễn
Căn cứ vào các văn bản của hai nước:
Với mục đích nghiên cứu như trên, tôi tập trung vào nghiên cứu các quy định của các văn bản sau đây:
Đối với pháp luật Việt Nam: Luật doanh nghiệp năm 2020
Đối với pháp luật Trung Quốc: Luật doanh nghiệp tư nhân 2000
Luật công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn năm 2005
Căn cứ vào tình hình thực tế:
– Mối quan hệ hữu nghị giữa hai quốc gia.
– Sự tương đồng trong các lĩnh kinh tế, văn hóa, chính trị, y tế giáo dục cũng như các phong tục tập quán, lối sống của nhân dân hai nước.
– Ngày càng có nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam cũng như doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào Trung Quốc.
– Nhiều các doanh nghiệp Trung Quốc cũng như Việt Nam đã gặp phải rất nhiều khó khăn khi đầu tư vào nước bạn do không hiểu rõ pháp luật của nhau.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu nhằm làm rõ sự khác biệt giữa quy định của pháp luật 2 nước về các trình tự cũng như thủ tục thành lập Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần. Những ưu điểm cũng như nhược điểm của pháp luật hai nước đối với các loại hình doanh nghiệp nêu trên.Từ đó, hai nước có thể học tập được những cái hay của nhau để không ngừng sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật của nước mình nhằm phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại cũng như của thế giới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Mục tiêu cụ thể trong việc nghiên cứu, so sánh luật các quy định của Luật Doanh Nghiệp Việt Nam và Luật Trung Quốc về Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần là:
– Giúp cho các doanh nghiệp hai nước hiểu rõ hơn quy định pháp luật của nước kia.
– Giúp cho các nhà đầu tư có thể đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn phù hợp với quy định của pháp luật của nước dự định đầu tư.
– Các doanh nghiệp có thể lựa chọn được hình thức đầu tư phù hợp.
– Tránh được các rủi do trong đầu tư do thiếu kiến thức về luật pháp.
– Đạt được kết quả kinh doanh tốt nhất và thu được lợi nhuận cao.
3. Phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
– Luật Doanh Nghiệp Việt Nam.
– Luật Công ty của Trung Quốc.
– Luật doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
– Nghiên cứu trong phạm vi các quy định về thủ tục và trình tự thành lập Công ty Trách nhiệm Hữu hạn, Công ty Cổ phần, doanh nghiệp tư nhân trong Luật Doanh Nghiệp Việt Nam, Luật Công ty của Trung Quốc, Luật doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc để làm rõ sự khác biệt trong quy định của pháp luật hai nước về các loại hình công ty nêu trên.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp luận
– Nghiên cứu để thấy được ưu điểm và nhược điểm cũng như sự khác biệt của pháp luật hai nước về thủ tục và trình tự thành lập Công ty Trách nhiệm Hữu hạn, Công ty Cổ phần, doanh nghiệp tư nhân trong Luật Doanh Nghiệp Việt Nam, Luật Công ty của Trung Quốc, Luật doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc.
– Để tích lũy và nâng cao kiến thức của bản thân về luật pháp của hai nước.
– Để đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu, tôi đã đi sâu nghiên cứu theo phương thức chọn vùng nghiên cứu cụ thể
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Để so sánh các quy định của Luật Việt Nam và Luật Trung Quốc về các trình tự và thủ tục thành lập Công ty Trách nhiệm Hữu hạn, Công ty Cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
o Phương pháp so sánh.
o Phương pháp đối chiếu.
o Phương pháp thống kê.
B NỘI DUNG
I Những vấn đề cơ bản về công ty
1.1 Khái niệm chung
Công ty là một thuật ngữ được nhiều các nhà luật học và nghiên cứu. Theo quan niệm của nhà Luật học người Cộng hoà liên bang Đức thì “Công ty được hiểu là sự liên kết của hai hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lý nhằm tiến hành các hoạt động để một mục tiêu chung nào đó”
Còn theo của Bộ luật dân sự Pháp thì “Công ty là một hợp đồng thông qua đó hai hay nhiều người thoả thuận với nhau sử dụng tài sản hay khả năng của mình vào một hoạt động chung nhằm chia lợi nhuận thu được qua hoạt động đó” .
Như vậy, khái niệm công ty đã xuất hiện từ rất lâu, mỗi tác giả có một cách thể hiện khác nhau về đặc điểm của Công ty. Tuy nhiên, về cơ bản công ty có những đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất, là sự liên kết của hai hay nhiều người hoặc tổ chức;
Thứ hai, là sự liên kết được thực hiện thông qua một sự kiện pháp lý (hợp đồng, điều lệ, quy chế,..);
Thứ ba, sự liên kết nhằm mục đích chung.
Với các đặc điểm chung như trên thì có rất nhiều loại công ty. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này tác giả chỉ tập trung nghiên cứu và phân tích công ty thương mại (không nghiên cứu công ty dân sự).
1.2 Đặc điểm của Công ty
Từ những khái niệm và đặc điểm như trên, ta có thể nhận thấy công ty kinh doanh có những đặc điểm chung như sau:
– Công ty là sự liên kết của nhiều cá nhân hoặc pháp nhân, sự liên kết này thể hiện ở hình thức bên ngoài là một tổ chức;
– Các thành viên bỏ ra một số tài sản của mình để góp vào công ty. Đây là điều kiện quan trọng để thành lập công ty. Tuy nhiên, vai trò của vốn góp đối với các loại công ty là khác nhau;
– Mục đích của việc thành lập công ty là để kinh doanh kiếm lời chia nhau.
Như vậy, công ty kinh doanh là một loại hình doanh nghiệp có sự liên kết của ít nhất là hai bên, các bên tham gia có thể là thể nhân, pháp nhân, nó hoàn toàn khác với doanh nghiệp một chủ sở hữu. Dấu hiệu phổ biến và cơ bản của các loại hình công ty là sự liên kết.
1.3 Sự ra đời của Công ty và luật công ty
Cũng như các hiện tượng kinh tế khác, công ty ra đời tồn tại và phát triển trong những điều kiện nhất định. Trong xã hội khi nền sản xuất hàng hoá đã phát triển đến một mức độ nhất định, để mở mang kinh doanh các nhà kinh doanh cần phải có nhiều vốn, nên họ liên kết lại với nhau. Trên cơ sở vốn và sự tin tưởng lẫn nhau đã liên kết theo những hình thức nhất định và tạo ra mô hình tổ chức kinh doanh mới – công ty kinh doanh.
Hơn nữa trong kinh doanh thường gặp rủi ro, để phân chia rủi ro cho nhiều người, các nhà kinh doanh cũng liên kết với nhau để nếu có rủi ro thì nhiều người cùng gánh chịu, điều này có lợi hơn so với doanh nghiệp một chủ.
Như vậy, sự ra đời của công ty là quy luật khách quan trong nền kinh tế thị trường. Công ty ra đời là kết quả của việc thực hiện nguyên tắc tự do kinh doanh, tự do kết ước và tự do lập hội.
Ở Việt Nam và Trung Quốc sự ra đời của công ty và pháp luật công ty muộn hơn so với các nước tư bản phương tây. Mặt khác, do Việt Nam và Trung Quốc mới là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới nên cả hai nước đã có những sửa đổi về pháp luật nói chung và pháp luật về doanh nghiệp nói riêng để phù hợp với quy định của pháp luật thế giới.
Hiện nay trên thế giới tồn tại hai hệ thống pháp luật công ty, hệ thống pháp luật công ty lục địa (châu Âu) chịu nhiều ảnh hưởng của pháp luật Đức và hệ thống luật công ty Anh-Mỹ.
Nói chung, luật công ty thuộc về luật tư, sự phát triển của nó gắn liền với lịch sử phát triển thương mại. Luật công ty là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ phát sinh trực tiếp trong quá trình thành lập, hoạt động phát triển và kết thúc hoạt động của công ty.
Ở Việt Nam và Trung Quốc, luật công ty ra đời muộn và chậm phát triển. Mặc dù hoạt động thương mại đã có từ lâu và trong lịch sử hoạt động thương mại được điều chỉnh bằng thông lệ thương mại.
Hiện nay, cả Việt Nam và Trung Quốc đều xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, cả hai nước đều trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới. Bởi vậy, cả hai nước đều có những quy định khá tương đồng trong việc quy định trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các loại hình doanh nghiệp như: Doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
1.4 Các loại hình công ty phổ biến trên thế giới
Qua nhiều năm tồn tại và phát triển, thì công ty có nhiều loại hình khác nhau. Nhưng căn cứ vào tính chất liên kết, chế độ trách nhiệm của thành viên công ty và ý chí của nhà lập pháp, dưới góc độ pháp lý người ta chia công ty thành hai loại:
Công ty đối nhân
Công ty đối vốn
1.4.1 Công ty đối nhân
Công ty đối nhân là những công ty mà việc thành lập dựa trên sự liên kết chặt chẽ bởi độ tin cậy về nhân thân của các thành viên tham gia, sự hùn vốn là yếu tố thứ yếu. Công ty đối nhân có một đặc điểm quan trọng là không có sự tách bạch về tài sản cá nhân các thành viên và tài sản công ty. Các thành viên liên đới chịu trách nhiệm vô hạn đối với mọi khoản nợ của công ty hoặc ít nhất phải có một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của Công ty.
Công ty đối nhân thường tồn tại dưới hai dạng cơ bản là: Công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản.
1.4.2 Công ty đối vốn
Công ty đối vốn ra đời sau công ty đối nhân. Khác với công ty đối nhân, công ty đối vốn không quan tâm đến nhân thân người góp vốn mà chỉ quan tâm đến phần vốn góp.
Đặc điểm khác nhau cơ bản giữa công ty đối vốn và công ty đối nhân là đối với công ty đối vốn có sự tách bạch tài sản của Công ty và tài sản cá nhân. Công ty đối vốn có tư cách pháp nhân, các thành viên công ty chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Do việc thành lập chỉ quan tâm đến phần vốn góp, do đó thành viên công ty thường rất đông, những người không hiểu biết về kinh doanh cũng có thể tham gia vào công ty, thành viên công ty dễ dàng thay đổi. Các công ty đối vốn thông thường gồm hai loại:
Công ty cổ phần
Công ty trách nhiệm hữu hạn
1.5 Các đặc điểm cơ bản của Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần trên thế giới
1.5.1 Công ty trách nhiệm hữu hạn
– Công ty trách nhiệm hữu hạn là một pháp nhân độc lập, địa vị pháp lý này quyết định chế độ trách nhiệm của Công ty;
– Thành viên công ty không nhiều và thường là những người quen biết nhau;
– Vốn điều lệ chia thành từng phần, mỗi thành viên có thể góp nhiều, ít khác nhau và bắt buộc phải góp đủ khi công ty thành lập, công ty phải bảo toàn vốn ban đầu;
Nguyên tắc này thể hiện rõ trong quá trình góp vốn, sử dụng vốn và phân chia lợi nhuận. Trong điều lệ công ty phải ghi rõ vốn ban đầu.
– Phần vốn góp không thể hiện dưới hình thức cổ phiếu và rất khó chuyển nhượng ra bên ngoài;
– Trong quá trình hoạt động, không được phép công khai huy động vốn trong công chúng (không được phát hành cổ phiếu)
– Về tổ chức, điều hành ở công ty trách nhiệm hữu hạn đơn giản hơn so với công ty cổ phần, về mặt pháp lý, công ty trách nhiệm hữu hạn thường chịu sự điều chỉnh bắt buộc ít hơn công ty cổ phần.
Có thể nói công ty trách nhiệm hữu hạn là mô hình lý tưởng để kinh doanh ở quy mô vừa và nhỏ.
Ngoài ra, còn có công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Công ty một chủ là kết quả pháp lý đặc biệt của quá trình phát triển. Các công ty đối vốn vẫn có khả năng tồn tại và phát triển khi toàn bộ tài sản của công ty chuyển vào tay một thành viên duy nhất và trở thành công ty một người.
Pháp luật Việt Nam và pháp luật Trung Quốc đều có những quy định riêng biệt để quy định trình tự, thủ tục và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
1.5.2 Công ty cổ phần
– Là một tổ chức có tư cách pháp nhân. Đây là loại hình công ty có tính tổ chức cao, hoàn thiện về vốn, hoạt động mang tính xã hội cao;
– Chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của công ty. Điều đó thể hiện: Công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của công ty, các thành viên công ty chỉ chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn họ đã góp cho công ty;
– Vốn cơ bản của công ty được chia thành các cổ phần;
– Trong quá trình hoạt động, công ty cổ phần được phát hành các loại chứng khoán ra thị trường để công khai huy động vốn trong công chúng. Do đó, sự ra đời của công ty cổ phần gắn liền với sự ra đời của thị trường chứng khoán;
– Việc chuyển nhượng phần vốn góp được thực hiện dễ dàng thông qua hành vi bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán;
– Công ty cổ phần có số lượng thành viên rất đông, có công ty có tới hàng vạn cổ đông trên khắp thế giới, vì vậy nó có khả năng huy động vốn rộng rãi nhất trong công chúng để đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong công nghiệp.
Đặc trưng quan trọng nhất của công ty cổ phần cũng là đặc điểm có tính chất quyết định để phân biệt với công ty trách nhiệm hữu hạn là cổ phần. Cổ phần theo quy định của pháp luật có ý nghĩa sau:
– Là phần vốn điều lệ của Công ty: Mỗi cổ phần phải thể hiện giá trị thực tế tính bằng tiền gọi là mệnh giá cổ phiếu);
– Cổ phần chứng minh tư cách thành viên cổ đông: Cổ phần được thể hiện dưới hình thức giấy tờ gọi là cổ phiếu. Cổ phiếu là một loại chứng khoán được lưu thông chuyển nhượng tự do trên thị trường.
Thủ tục thành lập công ty cổ phần theo pháp luật các nước trên thế giới
Bước 1: Trước hết, các sáng lập viên cùng nhau thoả thuận và xây dựng điều lệ công ty, trong đó phải ghi rõ: Tên công ty, trụ sở, mục tiêu, vốn điều lệ, số lượng và mệnh giá cổ phiếu, các quyền và nghĩa vụ của các thành viên công ty,..
Bước 2: Cử Hội đồng giám sát. Hội đồng giám sát cử ra ban điều hành để đảm nhận những công việc của công ty trong thời gian thành lập. Công việc quan trọng nhất là tiếp nhận vốn góp của các thành viên và chuẩn bị hồ sơ để đăng ký công ty.
Bước 3: Đăng ký vào danh bạ thương mại Toà Án tiến hành các thủ tục thẩm tra, sau đó ghi tên vào danh bạ thương mại và công bố công ty đã thành lập. Từ thời điểm này công ty có tư cách pháp nhân và cũng chỉ sau khi đã được đăng ký, công ty mới được phát hành các cổ phiếu ra công chúng. Mọi cổ phiếu bán ra trước khi đăng ký công ty đều coi là không có giá trị.
Tổ chức của công ty cổ phần theo pháp luật các nước
Về tổ chức công ty cổ phần rất phức tạp và phải hết sức chặt chẽ. Việc quản lý công ty cổ phần được thực hiện thông qua ba cơ quan: Đại hội cổ đông, hội đồng giám sát, ban điều hành. Sự quản lý của công ty được phân chia đồng đều về quyền lực giữa các cơ quan.
II Những vấn đề chung về công ty theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật Trung Quốc
2.1 Các quy định của pháp luật hai nước về thành lập và đăng ký kinh doanh
Ở hầu hết các nước phát triển, việc thành lập công ty hoàn toàn là quyền của công dân. Đó quyền tự do lập hội và họ thực hiện quyền này theo các quy định của pháp luật. Pháp luật chỉ quy định đối với công ty từ giai đoạn nó đăng ký kinh doanh.
Nội dung các quy định về thành lập và đăng ký kinh doanh công ty bao gồm hai vấn đề cơ bản:
– Đối tượng có quyền thành lập, có quyền góp vốn vào công ty;
– Đăng ký kinh doanh cho công ty.
2.1.1 Quyền thành lập và quyền góp vốn
Pháp luật hiện hành của Việt Nam chia nhà đầu tư thành hai đối tượng:
– Đối tượng có quyền thành lập và quản lý công ty
– Đối tượng được quyền góp vốn vào công ty
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật Trung Quốc không có những quy định về vấn đề này. Do đó, có thể coi đây là một trong những ưu điểm của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam so với pháp luật doanh nghiệp Trung Quốc.
2.1.2 Đăng ký kinh doanh
Đăng ký kinh doanh là thủ tục luật định nhằm khai sinh về mặt pháp lý cho công ty (thừa nhận tư cách pháp lý công ty) và công ty sẽ được đảm bảo về mặt pháp lý kể từ ngày hoàn tất thủ tục đăng ký kinh doanh.
Ở nhiều nước việc đăng ký kinh doanh được tiến hành ở toà án. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật Trung Quốc thì việc tiến hành đăng ký kinh doanh tiến hành ở cơ quan đăng ký kinh doanh. Đối với pháp luật Việt Nam là cơ quan đăng ký kinh doanh thuộc uỷ ban nhân dân tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương nơi công ty đặt trụ sở chính.
Người thành lập công ty phải lập và nộp đủ hồ sơ đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh và phải chịu tính chính xác, trung thực của hồ sơ đăng ký kinh doanh. Cơ quan đăng ký kinh doanh xem xét và chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ khi cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Không được yêu cầu công ty nộp thêm bất kỳ giấy tờ không theo quy định của pháp luật.
Trình tự và thủ tục đăng ký kinh doanh
Cơ quan đăng ký kinh doanh có trách nhiệm giải quyết việc đăn ký kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường hồ sơ thành lập của một doanh nghiệp gồm:
– Đơn xin thành lập doanh nghiệp;
– Điều lệ hoạt động của doanh nghiệp;
– Giấy chứng nhận góp vốn của cơ quan có thầm quyền;
– Các giấy tờ pháp lý khác.
Hồ sơ đăng ký kinh doanh sẽ được người đại diện cho các thành viên sáng lập hoặc người đại diện theo pháp luật của công ty nộp tại Cơ quan đăng ký kinh doanh.
III Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là một trong những loại hình doanh nghiệp cơ bản. Đặc biệt đối với hai nền kinh tế đang phát triển là Việt Nam và Trung Quốc thì số lượng loại hình doanh nghiệp này chiếm một vị trí khá lớn.
3.1 Khái niệm
Theo quy định của điều 141 Luật doanh nghiệp Việt Nam 2005 thì Doanh nghiệp tư nhân là:
1. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
2. Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
3. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
Còn theo quy định của điều 8 Luật doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc thì các điều kiện thành lập doanh nghiệp tư nhân:
Doanh nghiệp tư nhân thành lập trên lãnh thổ Trung Quốc do chủ doanh nghiệp thành lập, tài sản thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn đối với tài sản thuộc sở hữu của mình đối với doanh nghiệp.
Về cơ bản, pháp luật hai nước đều có sự tương đồng về các đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp tư nhân như là doanh nghiệp do một cá nhân la chủ sở hữu và chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đặc điểm chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với mọi khoản nợ của doanh nghiệp là lại được quy định riêng trong một điều của pháp luật Trung Quốc (Điều 18-Luật doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc).
3.2 Đặc điểm pháp lý của doanh nghiệp tư nhân
3.2.1 Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ
Đây là đặc điểm chung trong quy định của pháp luật hai nước, tức là doanh nghiệp tư nhân chỉ do một cá nhân làm chủ sở hữu. Từ đặc điểm này có thể thấy nó bao hàm nhiều đặc trưng để phân biệt loại hình doanh nghiệp tư nhân với các loại hình doanh nghiệp khác.
Về quan hệ sở hữu trong doanh nghiệp
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, khi thành lập doanh nghiệp tư nhân thì chủ doanh nghiệp tự khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh và được ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán của doanh nghiệp, đây là tài sản của doanh nghiệp tư nhân. Nhưng trong quá trình hoạt động chủ doanh nghiệp vẫn có quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư mà chỉ phải khai báo với cơ quan đăng ký kinh doanh khi giảm vốn xuống dưới mức vốn đăng ký.
Còn theo quy định của pháp luật Trung Quốc thì khi tiến hành đăng ký kinh doanh thì chủ sở hữu phải xác định giữa tài sản công ty và tài sản gia đình nhằm chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty. Như vậy, quy định của pháp luật hai nước đều quy định về việc chịu trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân đối với các khoản nợ của công ty.
Quan hệ sở hữu quyết định quan hệ quản lý
Doanh nghiệp tư nhân chỉ có một chủ đầu tư duy nhất, vì vây cá nhân có thể quyết định mọi vấn đề liên quan tới tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp. Một trong những ưu điểm của việc lựa chọn mô hình doanh nghiệp tư nhân để kinh doanh đó là chủ doanh nghiệp tư nhân không phải chia sẻ quyền quản lý doanh nghiệp cho bất kỳ đối tượng nào khác. Tuy nhiên, pháp luật của cả hai nước đều quy định chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân có thể uỷ quyền cho người khác quản lý doanh nghiệp. Người được uỷ quyền được phép hoạt động trong phạm vi uỷ quyền.
Về phân phối lợi nhuận
Vấn đề phân chia lợi nhuận không được đặt ra đối với doanh nghiệp tư nhân, bởi lẽ doanh nghiệp này chỉ có một chủ sở hữu nên toàn bộ lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ thuộc về một mình chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên việc một cá nhân duy nhất đó sẽ có nghĩa vụ chịu mỏi rủi ro trong kinh doanh mà không thể yêu cầu người khác gánh đỡ những rủi ro này. Đây là một hạn chế lớn của loại hình doanh nghiệp này.
3.2.2 Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn trước mọi khoản nợ phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp tư nhân
Chủ doanh nghiệp không chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh trong phạm vi phần vốn đầu tư đã đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh mà phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình.
3.3 Quy chế pháp lý về hình thành và chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp tư nhân
3.3.1 Điều kiện về ngành nghề kinh doanh
Pháp luật hai nước đều quy định về ngành nghề kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân được kinh doanh các ngành nghề mà pháp luật không cấm.
3.3.2 Điều kiện về tên doanh nghiệp
Trong khi Luật doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc quy định tại điều 11 “Tên gọi của doanh nghiệp tư nhân phải phù hợp với ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp” thì quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này chi tiết hơn. Theo quy định tại điều 31 Luật doanh nghiệp 2020 quy định: Tên doanh nghiệp phải được viết bằng tiếng Việt và có thể kèm theo chữ số và ký hiệu, phải phát âm được và có ít nhất hai thành tố: Loại hình doanh nghiệp và tên riêng. Như vây, tên của tất cả các doanh nghiệp tư nhân đều phải kèm theo cụm từ “doanh nghiệp tư nhân”. Ngoài ra, pháp luật Việt Nam còn quy định một số trường hợp cấm trong khi lựa chọn tên cho doanh nghiệp: không được sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức chính trị xã hội, không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử văn hoá, đạo đức…
3.3.3 Thủ tục đăng ký kinh doanh
Pháp luật của cả hai nước đều quy định một số thủ tục và trình tự nhất định khi thành lập doanh nghiệp tư nhân. Các bước tiến hành đăng ký kinh doanh như sau:
Nộp hồ sơ đăng ký kinh doanh
Hồ sơ đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam: giấy đề nghị đăng ký kinh doanh theo mẫu thống nhất, bản sao giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác, văn bản xác nhận phần vốn pháp định của doanh nghiệp nếu kinh doanh trong những ngành nghề có yêu cầu vốn pháp định, chứng chỉ hành nghề của chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc giám đốc doanh nghiệp..
Còn theo quy định của pháp luật Trung Quốc, hồ sơ xin thành lập doanh nghiệp tư nhân bao gồm: Đơn xin thành lập, chứng nhận góp vốn, giấy chứng nhận địa điểm kinh doanh.
Thời hạn cấp giấy đăng ký kinh doanh
Pháp luật hai nước đều quy định về thời hạn cấp Giấy đăng ký kinh doanh là 15 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Trong trường hợp cần bổ sung hồ sơ thì cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh phải trả lời bằng văn bản để yêu cầu bổ sung hồ sơ
3.3.4 Chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp tư nhân
Đây là một trong những nội dung quan trọng mà pháp luật hai nước đề cập đến khá chi tiết.
a. Giải thể doanh nghiệp tư nhân
Với tư cách là một loại hình doanh nghiệp nên doanh nghiệp tư nhân cũng có quá trình giải thể giống với các doanh nghiệp khác, nhưng với những đặc điểm riêng biệt nên việc giải thể doanh nghiệp tư nhân cũng có một số đặc điểm khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp khác.
Theo quy định tại điều 157 của Luật doanh nghiệp Việt Nam 2005, thì doanh nghiệp tư nhân giải thể trong các trường hợp sau:
– Theo quyết định của chủ doanh nghiệp tư nhân
– Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
Còn theo quy định tại điều 26 của luật doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc thì doanh nghiệp tư nhận giải thể trong các trường hợp sau:
(1) Chủ doanh nghiệp quyết định giải thể;
(2) Chủ doanh nghiệp chết hoặc được tuyên bố chết mà không có người thừa kế hoặc người thừa kế quyết định từ bỏ thừa kế.
(3) Bị thu hồi giấy đăng ký kinh doanh.
(4) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Về lý do giải thể doanh nghiệp tư nhân, pháp luật Việt Nam và pháp luật Trung Quốc có những trường hợp quy định giống nhau.
Thứ nhất, là trường hợp giải thể tự nguyện. Đây là quy định của pháp luật hai nước trao cho chủ doanh nghiệp tư nhân được quyết định việc có giải thể doanh nghiệp hay không, có nghĩa là lý do giải thể phụ thuộc vào lựa chọn và ý chí của chủ doanh nghiệp tư nhân. Điều này đảm bảo được một cách cao hơn quyền tự do kinh doanh và sở hữu doanh nghiệp của các nhà đầu tư.
Thứhai, bị thu hồi giấy đăng ký kinh doanh. Đây là trường hợp giải thể bắt buộc. Việc quy định trường hợp này xuất phát từ việc đảm bảo tính pháp chế tuyệt đối trong việc áp dụng luật. Giấy đăng ký kinh doanh là loại giấy tờ quan trọng nhất của doanh nghiệp, có được loại giấy này thì chứng tỏ được rằng Nhà nước công nhận doanh nghiệp tư nhân là một chủ thể kinh doanh và có thẩm quyền kinh tế. Hay nói cách khác, Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chứng minh tính hợp pháp hay bất hợp pháp của hoạt động kinh doanh do doanh nghiệp tư nhân tiến hành. Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cũng có nghĩa là Nhà nước rút lại sự công nhận tư cách chủ thể kinh doanh đối với doanh nghiệp tư nhân. Lúc này, doanh nghiệp tư nhân không có thẩm quyền kinh tế, có nghĩa là không còn được tiến hành các hoạt động kinh doanh, mục đích của việc thành lập doanh nghiệp không có cơ hội để thực hiện được nữa. Vì vậy, sự tồn tại của doanh nghiệp không còn ý nghĩa.
Bên cạnh hai trường hợp giải thể như trên, luật doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc còn quy định hai trường hợp khác là chủ doanh nghiệp tư nhân chết mà không có người thừa kế. Bởi vì cá nhân là chủ sở hữu của doanh nghiệp tư nhân, nếu chủ sở hữu chết đi mà không có người thừa kế thì không có người quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Đồng thời mục đích thành lập ra doanh nghiệp tư nhân được thành lập ra không đạt được. Và đặc điểm chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ sẽ khó thực hiện thậm chí là không thực hiện được. Do đó, sự tồn tại của doanh nghiệp tư nhân sẽ ảnh hưởng tới lợi ích của người thứ ba khi tham gia các quan hệ kinh tế với doanh nghiệp tư nhân đó.
Pháp luật tư nhân Trung Quốc còn quy định một trường hợp dự phòng đó là các trường hợp do pháp luật quy định.
Các bước giải thể doanh nghiệp
Bước 1: Chủ doanh nghiệp tư nhân quyết định việc giải thể doanh nghiệp
Bước 2: Chủ doanh nghiệp tư nhân trực tiếp tổ chức thanh lý tài sản doanh nghiệp. Ngoài ra, theo quy định tại điều 27 của Luật doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc thì chủ doanh nghiệp còn có thể đề nghị Toà án chỉ định người kiểm kê tài sản.
Bước 3: Chủ doanh nghiệp tiến hành các thủ tục thông báo và đăng báo
Bước 4: Cơ quan nhà nước làm thủ tục xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh.
Tuy nhiên, có một điểm khác biệt cơ bản về chế định giải thể theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật Trung Quốc đó là: theo Luật doanh nghiệp tư nhận Trung Quốc tại Điều 28 thì Sau khi doanh nghiệp tư nhân giải thể, chủ doanh nghiệp vẫn phải chịu các trách nhiệm bồi hoàn các khoản nợ trong thời gian doanh nghiệp hoạt động. Tuy nhiên, nếu trong vòng 05 năm mà những người có quyền lợi liên quan không yêu cầu bồi thường thì trách nhiệm bồi hoàn sẽ vô hiệu. Còn đối với pháp luật Việt Nam thì không có quy định này. Bởi vậy, các chủ doanh nghiệp tư nhân đã giải thể không được miễn trừ nghĩa vụ như quy định trên của pháp luật Trung Quốc.
b. Phá sản doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân kinh doanh thua lỗ kéo dài tới mức không trả đước các khoản nợ đến hạn. Doanh nghiệp sẽ tiến hành các thủ tục theo quy định của pháp luật về phá sản.
c. Thuê doanh nghiệp tư nhân
Ngoài ra, Luật doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 còn quy định về quyền cho thuê doanh nghiệp của chủ doanh nghiệp tư nhân. Đây là việc chủ doanh nghiệp tư nhân chuyển quyền sử dụng doanh nghiệp do mình đăng ký kinh doanh cho người khác sử dụng trong một thời gian nhất định. Việc cho thuê doanh nghiệp khác với việc cho thuê một vài tài sản của doanh nghiệp. Trong quan hệ thuê doanh nghiệp, người đi thuê không chỉ được sử dụng tài sản hữu hình của doanh nghiệp mà còn được sử dụng tài sản vô hình (uy tín, thương hiệu,..). Việc cho thuê doanh nghiệp không làm hạn chế tư cách pháp lý của doanh nghiệp đó, cũng không làm thay đổi chủ sở hữu của doanh nghiệp, nên chủ doanh nghiệp tư nhân đã đăng ký vẫn phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước pháp luật và các bên thứ ba. Mối quan hệ giữa chủ doanh nghiệp tư nhân và người thuê doanh nghiệp tư nhân là mối quan hệ thiết lập trên cơ sở hợp đồng cho thuê. Trong thời gian cho thuê, trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn tồn tại đối với mọi hoạtd động của doanh nghiệp.
Luật doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc không có những quy định về vấn đề này.
d. Bán doanh nghiệp tư nhân
Điều 145 Luật doanh nghiệp Việt Nam 2005 quy định chủ doanh nghiệp tư nhân được quyền bán doanh nghiệp tư nhân. Còn theo quy định của pháp luật Trung Quốc không có quy định này. Việc bán toàn bộ doanh nghiệp tư nhân được hiểu là việc chuyển giao quyền sở hữu doanh nghiệp tư nhân cho người khác, cũng giống như với việc cho thuê doanh nghiệp, bán doanh nghiệp cũng bao gồm việc bán các tài sản và các giá trị khác của doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, bán doanh nghiệp tư nhân không có nghĩa là sau khi hoàn tất thủ tục mua bán, bên mua có thể sử dụng tư cách pháp lý của doanh nghiệp tư nhân đã mua để tiến hành các hoạt động kinh doanh. Bên mua phải đăng ký kinh doanh lại để hoạt động trên cơ sở doanh nghiệp tư nhân đã mua. Điều này cũng có nghĩa là với việc bán doanh nghiệp tư nhân chỉ là chuyển nhượng các tài sản của doanh nghiệp mà không chuyển nhượng tư cách pháp lý. Kể từ ngày bán doanh nghiệp tư nhân, thì doanh nghiệp này coi như chấm dứt hoạt động.
e. Tạm ngừng hoạt động kinh doanh
Đây cũng là một điểm khác biệt giữa quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật Trung Quốc. Theo điều 156 Luật doanh nghiệp 2020 thì doanh nghiệp tư nhân có quyền tạm ngừng hoạt động kinh doanh. Lý do tạm ngừng phụ thuộc vào chủ doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, việc tạm ngừng kinh doanh không có nghĩa là chủ doanh nghiệp tư nhân được hoãn lại các nghĩa vụ phải thực hiện với nhà nước hoặc bên thứ ba.
IV Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
4.1 Khái niệm, đặc điểm
4.1.1 Khái niệm
Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình công ty gồm không quá 50 thành viên góp vốn thành lập và công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của mình. Theo quy định tại điều 38 Luật doanh nghiệp Việt Nam 2005, Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có những đặc điểm sau đây:
– Là doanh nghiệp có không quá 50 thành viên trong quá trình hoạt động;
– Công ty trách nhiệm hữu hạn là một pháp nhân;
– Công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bằng tài sản của mình (trách nhiệm hữu hạn). Thành viên công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty. Như vậy, trong công ty trách nhiệm hữu hạn có sự phân tách tài sản, tài sản của công ty và tài sản của thành viên. Nguyên tắc phân tách tài sản được áp dụng trong mọi quan hệ tài sản, nợ nần và trách nhiệm của công ty.
– Công ty trách nhiệm hữu hạn không được quyền phát hành cổ phiếu ra công chúng để huy động vốn;
– Phần vốn góp của các thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định của pháp luật
Theo quy định tại Điều 23 của Luật Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần Trung Quốc thì Công ty trách nhiệm hữu hạn là thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn thoả mãn các điều kiện sau đây:
– Số lượng thành viên theo quy định của pháp luật
– Vốn góp được cam kết bởi các thành viên là khoản vốn góp nhỏ nhất theo quy định của pháp luật;
– Điều lệ hoạt động của Công ty được các thành viên tham gia;
– Công ty có tên và tổ chức theo quy định về Công ty trách nhiệm hữu hạn và
– Công ty có trụ sở kinh doanh.
Cũng theo quy định tại điều 24 của Luật này thì có không quá 50 thành viên tham gia góp vốn.
Đây là đặc điểm nổi bật của Công ty trách nhiệm hữu hạn, vừa mang những đặc điểm của công ty đối nhân và đối vốn.
Công ty trách nhiệm hữu hạn là sản phẩm của hoạt động lập pháp sáng tạo ra. Các nhà lập pháp đã kết hợp các ưu điểm của loại hình công ty đối nhân và công ty đối vốn để sáng tạo ra một loại hình công ty rất được các nhà đầu tư ưa chuộng.
4.2 Tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên
Việc tổ chức và điều hành công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở lên được thực hiện thông qua các cơ quan của nó. Cơ cấu tổ chức quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn được pháp luật quy định tuỳ thuộc vào số lượng thành viên của Công ty. Các quy định về tổ chức quản lý công ty nói chung và công ty trách nhiệm hữu hạn nói riêng phần lớn là những quy định mang tính tuỳ nghi. Trên cơ sở đó, công ty lựa chọn và áp dụng. Bên cạnh đó, có những quy định mang tính bắt buộc để bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư thiểu số, lợi ích của chủ nợ và tăng cường trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp.
Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên phải có: Hội đồng thành viên, chủ tịch hội đồng thành viên, giám đốc (hoặc tổng giám đốc). Khi công ty trách nhiệm hữu hạn có trên 11 thành viên thì công ty bắt buộc Ban Kiểm soát.
4.2.1 Hội đồng thành viên
Là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của công ty bao gồm tất cả các thành viên công ty. Nếu thành viên là tổ chức thì phải chỉ định đại diện của mình vào hội đồng thành viên. Thành viên có thể trực tiếp hoặc uỷ quyền bằng văn bản cho thành viên khác dự họp hội đồng thành viên.
Là cơ quan tập thể, hội đồng thành viên không làm việc thường xuyên mà chỉ tồn tại trong thời gian họp và ra quyết định trên cơ sở biểu quyết cuộc họp hoặc lấy ý kiến của các thành viên bằng văn bản.
Theo điều 37 của Luật công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần Trung Quốc, Hội đồng Thành viên Công ty của Công ty trách nhiệm hữu hạn bao gồm tất cả thành viên của Công ty. Đây là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của Công ty, và sẽ thực hiện thẩm quyền của nó theo quy định của pháp luật.
Cuộc họp Hội đồng thành viên
Với tính chất là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của Công ty, cuộc họp Hội đồng thành viên không làm việc thường xuyên mà chỉ tồn tại trong thời gian họp và ra quyết định trên cơ sở biểu quyết tại cụôc họp hoặc lấy ý kiến các thành viên bằng văn bản.
Triệu tập cuộc họp
Pháp luật các nước đều có quy định về việc triệu tập họp trong đó: Họp thường kỳ và họp bất thường.
Họp bất thường thường được tổ chức khi có sự kiện quan trọng xảy ra ảnh hưởng lớn tới hoạt động của công ty. Trong đó người có thẩm quyền triệu tập họp thường là các thành viên đại diện cho một tỷ lệ phần trăm vốn góp nhất định hoặc người có thẩm quyền trong công ty. Pháp luật mỗi nước đều có những quy định cụ thể về tỉ lệ phần trăm đó.
Việc khác nhau cơ bản về cơ cấu tổ chức của pháp luật hai nước về cơ cấu tổ chức của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên là theo quy định của pháp luật Trung Quốc có những quy định về Ban giám đốc.
4.2.2 Giám đốc (Ban giám đốc)
Là người điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của Công ty, do Hội đồng thành viên bổ nhiệm và chịu trách nhiệm trước hội đồng thành viên về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ củat mình. Giám đốc (tổng giám đốc) là người đại diện theo pháp luật của Công ty, trừ trường hợp điều lệ Công ty quy định chủ tịch Hội đồng thành viên là đại diện theo pháp luật của Công ty.
Giám đốc (Tổng giám đốc) có các quyền và nghĩa vụ được quy định trong Luật doanh nghiệp 2020 và điều lệ công ty.
Theo quy định của pháp luật Trung Quốc, Công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên phải thành lập Ban giám đốc. Ban giám đốc có số lượng từ 3-13 thành viên. Nếu Công ty trách nhiệm được thành lập bởi ít nhất 2 Công ty nhà nước hoặc các nhà đầu tư nhà nước, ban giám đốc sẽ bao gồm các đại diện của người lao động trong Công ty. Ban giám đốc của các Công ty trách nhiệm hữu hạn có thể bao gồm đại diện của người lao động trong Công ty có liên quan. Đại diện người lao động tham gia Ban giám đốc được bầu một cách dân chủ bởi người lao động trong công ty thông qua cuộc họp của các đại diên của người lao động, cuộc họp của người lao động hoặc theo những cách tương tự. Ban giám đốc có một chủ tịch và có thể một hoặc nhiều phó chủ tịch. Việc bổ nhiệm chủ tịch và các phó chủ tịch sẽ được quy định trong điều lệ hoạt động của Công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn có ít thành viên hoặc Công ty trách nhiệm hữu hạn nhỏ, chỉ cần có Giám đốc điều hành và không cần Ban giám đốc. Giám đốc điều hành có thể kiêm giữ chức vụ quản lý công ty.
Tuy nhiên, quy mô công ty như thế nào được coi là nhỏ thì trong quy định của pháp luật Trung Quốc không có quy định cụ thể.
4.2.3 Ban kiểm soát
Về mặt pháp lý, Ban kiểm soát là cơ quan thay mặt các thành viên công ty kiểm soát các hoạt động của Công ty, pháp luật chỉ bắt buộc công ty trách nhiệm hữu hạn trên 11 thành viên phải có ban kiểm soát. Quyền và nghĩa vụ và chế độ làm viêc của Ban kiểm soát do điều lệ công ty quy định.
Còn theo quy định của Pháp luật Trung Quốc không có quy định rõ ràng về việc thành lập Ban kiểm soát. Đối với công ty có quy mô nhỏ và ít thành viên thì có thể không cần phải thành lập Ban kiểm soát nhưng có thể thành lập Kiểm soát viên.
4.3 Vốn và chế độ tài chính
Điểm khác biệt lớn nhất giữa Pháp luật hai nước về việc quy định vốn góp là Pháp luật Trung Quốc có quy định về mức vốn tối thiểu của Công ty trách nhiệm hữu hạn là 30.000 Nhân dân tệ. Quy định này nhằm đảm bảo cho hoạt động của Công ty được ổn định, bảo đảm lợi ích của người thứ ba khi tham gia giao dịch với công ty
Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình công ty đối vốn không được quyền phát hành cổ phiếu ra thị trường để công khai huy động vốn trong công chúng. Khi thành lập công ty, các thành viên phải cam kết góp vốn vào công ty với giá trị vốn góp và thời hạn góp vốn cụ thể. Thành viên phải góp đầy đủ và đúng hạn như đã cam kết. Khi góp đủ giá trị phần vốn góp, thành viên công ty được cấp giấy chứng nhận góp vốn. Trường hợp có thành viên không đầy đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp được coi là nợ của thành viên đó đối với công ty và thành viên đó phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh do không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết. Người đại diện theo pháp luật của Công ty nếu không thực hiện nghĩa vụ thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh thì phải cùng thành viên chưa góp vốn liên đới chịu trách nhiệm đối với công ty về phần vốn chưa góp và các thiệt hại phát sinh do không đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết.
Đối với quy định của Pháp luật Trung Quốc về việc góp vốn, nếu có thành viên không thực hiện đúng và đủ số vốn đã cam kết góp vào Công ty, thì các thành viên thành lập Công ty phải liên đới chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa quy định của Pháp luật hai nước về trình tự góp vốn.
4.3.1 Chuyển nhượng phần vốn góp
Về việc chuyển nhượng vốn, pháp luật cả hai nước đều cùng có quy định chung là khi một thành viên công ty muốn chuyển nhượng vốn thì các thành viên còn lại có quyều ưu tiên mua lại phần vốn góp đó theo tỉ lệ vốn góp của họ trong công ty hoặc theo quy định trong điều lệ công ty. Trong trường hợp các thành viên còn lại của Công ty từ chối quyền ưu tiên mua lại phần vốn góp của thành viên đó thì có thể chào bán cho người bên ngoài công ty. Còn theo quy định tại Điều 72 của luật Trung Quốc thì “Toàn bộ vốn góp hoặc một phần vốn góp của thành viên Công ty có thể được chuyển nhượng giữa các thành viên của Công ty.
Khi một thành viên Công ty có ý định chuyển nhượng quyền góp vốn cho một thành viên khác không phải là thành viên Công ty, thì việc chuyển đổi của thành viên đó cần phải được sự đồng ý của ít nhất một nữa số thành viên còn lại của Công ty đồng ý. Thành viên đó phải thông báo tới các thành viên còn lại bằng văn bản hình thức của việc chuyển đỏi quyền góp vốn nhằm đạt được sự chấp thuận của cá thành viên còn lại. Nếu không có thành viên nào phản đối việc chuyển nhượng trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được sự thông báo bằng văn bản đó, thì coi như các thành viên đó đồng ý việc chuyển nhượng. Nếu có ít nhất một nửa số thành viên còn lại không đồng ý việc chuyển nhượng, thì thành viên không đồng ý việc chuyển nhượng sẽ mua lại phần vốn góp được chuyển nhượng. Nếu thành viên đó từ chối việc mua lại phần vốn góp, thì xem như là họ đã đồng ý việc chuyển nhượng. Với cùng những điều kiện, các thành viên còn lại có quyền ưu tiên mua lại vốn góp phụ thuộc vào sự chấp thuận của thành viên đó. Nếu ít nhất hai thành viên thực hiện quyền ưu tiên, họ sẽ quyết định số phần trăm của việc mua lại phần vốn góp thông qua thoả thuận. Nếu các thành viên nào không đưa ra được thoả thuận nào trong quá trình đàm phán, thành viên sẽ thực hiện thực hiện quyền ưu tiên mua lại phần vốn góp dựa trên tỉ lệ phần trăm phần vốn góp của thành viên đó. Trừ khi có sự quy định nào khác về việc chuyển nhượng phần vốn góp trong điều lệ hoạt động của Công ty, thì các quy định của Điều lệ hoạt động của Công ty sẽ được áp dụng.”
Như vậy, quy định về chuyển nhượng vốn của hai nước về cơ bản là giống nhau và vừa mang tính chất của một công ty đối nhân và công ty đối vốn.
Đây cũng là một đặc điểm khác biệt giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần, các cổ đông của Công ty cổ phần có thể tự do chuyển nhượng cổ phần của mình trừ trường hợp do pháp luật quy định đối với cổ đông sáng lập và đối với cổ phần ưu đãi biểu quyết. Pháp luật Trung Quốc còn quy định một trường hợp đặc biệt trong chuyển nhượng vốn là trường hợp chuyển nhượng vốn bắt buộc theo quyết định của Toà án Nhân dân. Theo quy định tại điều 73 “Khi toà án nhân dân chuyển nhượng quyền góp vốn theo thủ tục bắt buộc theo quy định của pháp luật, thì phải thông báo cho công ty và tất cả các thành viên, và các thành viên còn lại có quyền ưu tiên với cùng một điều kiện. Nếu có thành viên nào không thực hiện quyền ưu tiên của mình trong vòng 20 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của toà án, thì được xem như thành viên đó từ chối quyền ưu tiên của mình”.
Trong trường hợp một thành viên của công ty bị chết thì người thừa kế sẽ đương nhiên trở thành thành viên công ty nếu có đủ năng lực chủ thể.
Toàn bộ vốn góp hoặc một phần vốn góp của thành viên Công ty có thể được chuyển nhượng giữa các thành viên của Công ty.
Còn theo quy định tại điều 72 của Luật công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần Trung Quốc thì “Khi một thành viên Công ty có ý định chuyển nhượng quyền góp vốn cho một thành viên khác không phải là thành viên Công ty, thì việc chuyển đổi của thành viên đó cần phải được sự đồng ý của ít nhất một nữa số thành viên còn lại của Công ty đồng ý. Thành viên đó phải thông báo tới các thành viên còn lại bằng văn bản hình thức của việc chuyển đỏi quyền góp vốn nhằm đạt được sự chấp thuận của cá thành viên còn lại. Nếu không có thành viên nào phản đối việc chuyển nhượng trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được sự thông báo bằng văn bản đó, thì coi như các thành viên đó đồng ý việc chuyển nhượng. Nếu có ít nhất một nửa số thành viên còn lại không đồng ý việc chuyển nhượng, thì thành viên không đồng ý việc chuyển nhượng sẽ mua lại phần vốn góp được chuyển nhượng. Nếu thành viên đó từ chối việc mua lại phần vốn góp, thì xem như là họ đã đồng ý việc chuyển nhượng. Với cùng những điều kiện, các thành viên còn lại có quyền ưu tiên mua lại vốn góp phụ thuộc vào sự chấp thuận của thành viên đó. Nếu ít nhất hai thành viên thực hiện quyền ưu tiên, họ sẽ quyết định số phần trăm của việc mua lại phần vốn góp thông qua thoả thuận. Nếu các thành viên nào không đưa ra được thoả thuận nào trong quá trình đàm phán, thành viên sẽ thực hiện thực hiện quyền ưu tiên mua lại phần vốn góp dựa trên tỉ lệ phần trăm phần vốn góp của thành viên đó. Trừ khi có sự quy định nào khác về việc chuyển nhượng phần vốn góp trong điều lệ hoạt động của Công ty, thì các quy định của Điều lệ hoạt động của Công ty sẽ được áp dụng”.
Một số trường hợp chuyển nhượng vốn đặc biệt:
Trong trường hợp chủ nợ nhận trả nợ bằng phần vốn góp của thành viên thì chỉ trở thành thành viên của Công ty trong trường hợp được Hội đồng thành viên chấp thuận.
Nếu không được Hội đồng thành viên chấp thuận thì có thể được áp dụng các quy định về chuyển nhượng vốn
Nếu người thừa kế không muốn là thành viên hoặc không đủ điều kiện thì có quyền yêu cầu công ty mua lại. Trong trường hợp đủ điều kiện và đựơc các thành viên khác chấp thuận thì người thừa kế trở thành thành viên của hội đồng thành viên.
Pháp luật Trung Quốc chỉ quy định trường hợp chuyển nhượng vốn đặc biệt trong một trường hợp là “Sau khi một thành viên là cá nhân chết, thì người thừa kế hợp pháp của họ có thể thừa kế vị trí của họ trừ khi có sự quy định khác trong điều lệ hoạt động của công ty”.
4.3.2 Mua lại phần vốn góp
Pháp luật Việt Nam còn quy định trường hợp thành viên có thể yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp. Đây là các trường hợp đặc biệt mà thành viên công ty không thoả thuận được với công ty về các vấn đề quan trọng như:
– Sửa đổi, bổ sung các nội dung trong Điều lệ công ty liên quan đến quyền và nghĩa vụ của thành viên, Hội đồng thành viên;
– Tổ chức lại công ty;
– Các trường hợp khác quy định tại Điều lệ công ty.
Pháp luật Trung Quốc cũng có những quy định về việc mua lại phần vốn góp của công ty đối với thành viên, các trường hợp đó là:
– Công ty không phân chia lợi nhuận cho các thành viên trong vòng 5 năm, mặc dù Công ty thu được lợi nhuận trong năm năm liên tiếp và thành viên thoả mãn điều kiện phân chia lợi nhuận như được quy định tại Luật này;
– Sáp nhập, chia tách hoặc chuyển nhượng những tài sản chủ yếu của Công typany được đảm bảo;
– Khi hết nhiệm kỳ kinh doanh như được quy định tại Điều lệ hoạt động của Công ty hoặc các lý do về giải thể Công ty như được quy định tại điều lệ hoạt động đã xảy ra, cuộc họp thành viên sẽ tổ chức để công ty tiếp tục hoạt động để thông qua nghị quyết về việc sửa đổi điều lệ hoạt động của Công ty.
Như vậy, theo quy định của pháp luật cả hai nước thì những trường hợp mà thành viên có thể yêu cầu Công ty mua lại phần vốn góp khi giữa thành viên đó và công ty có những mâu thuẫn lớn với nhau hoặc giữa hai bên có những quyền lợi không thể giải quyết.
Cần phân biệt rõ về đặc điểm của mua lại phần vốn góp so với chuyển nhượng phần vốn góp:
Đối với việc công ty mua lại phần vốn góp thì thành viên đó chỉ được công ty thanh toán phần vốn góp đó với giá trị bằng với số tiền như được quy định trong điều lệ (số vốn mà thành viên đó góp vào công ty khi công ty thành lập). Còn việc chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên có thể được các thành viên thoả thuận với nhau hoặc giữa thành viên thỏa thuận với công ty. Bởi vậy, mức giá chuyển nhượng này có thể thấp hơn hoặc cao hơn so với giá trị vốn góp ban đầu của thành viên đó vào công ty.
4.3.3 Tăng, giảm vốn điều lệ
Pháp luật của cả hai nước đều có những quy định về việc tăng giảm vốn.
Đối với việc tăng vốn, khi công ty tiến hành việc việc tăng vốn thì các thành viên của Công ty có thể được góp vốn vào công ty dựa vào tỉ lệ phần vốn góp của thành viên đó đã góp tại Công ty.
Mặt khác, pháp luật Việt Nam còn đặt ra một trường hợp khác là tiếp nhận phần vốn góp của thành viên mới. Đây là điểm khác biệt của pháp luật hai nước về chế định tăng vốn.
Về việc giảm vốn điều lệ, cả hai nước đều quy định về Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên được phép giảm vốn điều lệ.
Đồng thời khi giảm vốn điều lệ thì Công ty phải tiến hành các thủ tục thông báo bằng văn bản của Công ty tới Cơ quan đăng ký kinh doanh.
Còn theo quy định của pháp luật Trung Quốc việc giảm vốn của doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải tiến hành hoạch toán và kiểm kê tài sản của công ty. Mặt khác, công ty ngoài việc phải thông báo tới cơ quan đăng ký kinh doanh còn phải thông báo tới các chủ nợ của công ty trong vòng 10 ngày kể từ ngày có quyết định giảm vốn.
4.3.4 Phân chia lợi nhuận
Đối với pháp luật Việt Nam khi quy định về các điều kiện phân chia lơi nhuận thì các thành viên công ty chỉ được phân chia lợi nhuận khi Công ty kinh doanh có lãi và đã thực hiện đầy chủ các nghĩa vụ của Công ty đối với nhà nước. Đồng thời vẫn phải bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản đến hạn trả khác sau khi chia lợi nhuận.
Pháp luật Trung Quốc lại có những quy định khác biệt về việc phân chia lợi nhuận. Trong đó, các thành viên công ty được phân chia lợi nhuận trong vòng hai năm kể từ khi Công ty được thành lập. Còn đối với công ty đầu tư thì pháp luật quy định thành viên công ty được phân chia lợi nhuận trong vòng 5 năm kể từ khi công ty được thành lập. Bởi vì công ty đầu tư có thời gian thu hồi lợi nhuận chậm hơn so với các công ty kinh doanh trong các ngành nghề kinh doanh khác.
Mặt khác, theo quy định của hai nước như trên thì pháp luật Trung Quốc có phần đảm bảo lợi ích cho các thành viên tham gia góp vốn vào công ty so với quy định của pháp luật Việt Nam.
V Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
5.1 Khái niệm và đặc điểm
Theo đó công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (gọi là chủ sở hữu công ty). Chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ.
Từ khái niệm trên, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có những đặc điểm như sau:
– Do một thành viên là tổ chức hoặc cá nhân làm chủ sở hữu
– Chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm hữu hạn;
– Việc chuyển nhượng phần vốn góp của chủ sở hữu được thực hiện theo quy định của pháp luật;
– Có tư cách pháp nhân;
– Không được quyền phát hành cổ phiếu.
Còn đối với quy định của pháp luật Trung Quốc về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là công ty do một cá nhân hoặc một pháp nhân thành lập. Như vậy, về bản chất công ty trách nhiệm hữu hạn theo quy định của pháp luật hai nước có những đặc điểm tương đồng nhau.
5.2 Tổ chức và quản lý công ty
Theo quy định của pháp luật Trung Quốc về tổ chức và hoạt động của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có cơ cấu tổ chức và quản lý giống công ty trách nhiệm từ hai thành viên trở lên. Tuy nhiên, xét về bản chất, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do một pháp nhân hoặc một cá nhân làm chủ. Bởi vậy, pháp luật nước này có những quy định mở rộng hơn. Trong đó, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có thể thành lập Hội đồng thành viên hoặc không. Một công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có thể không tổ chức cuộc họp thành viên. Khi thành viên Công ty quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng thành viên thì những vấn đề đó phải đựoc thể hiện bằng văn bản, và được lưu giữ tại Công ty sau khi thành viên Công ty ký kết.
Pháp luật Việt Nam có những quy định cụ thể về tổ chức quản lý của Công ty:
Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là tổ chức
Chủ sở hữu công ty bổ nhiệm một hoặc một số người đại diện theo uỷ quyền với nhiệm kỳ không quá 5 năm để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Chủ sở hữu công ty có quyền thay thế người đại diện theo uỷ quyền bất cứ lúc nào.
– Trường hợp có ít nhất hai người được bổ nhiệm làm đại diện theo uỷ quyền thì cơ cấu tổ chức của công ty gồm: Hội đồng thành viên, giám đốc hoặc tổng giám đốc và kiểm soát viên. Hội đồng thành viên gồm tất cả những người đại diện theo uỷ quyền.
– Trường hợp một người được bổ nhiệm là đại diện theo uỷ quyền thì cơ cấu tổ chức của Công ty gồm: Chủ tịch công ty, giám đốc hoặc tổng giám đốc và kiểm soát viên.
Điều lệ công ty quy định chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc chủ tịch công ty hoặc giám đốc (tổng giám đốc) là người đại diện theo pháp luật của Công ty.
Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân
Cơ cấu tổ chức của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân gồm: Chủ tịch công ty, giám đốc (Tổng giám đốc). Chủ sở hữu công ty đồng thời là chủ tịch công ty. Chủ tịch công ty hoặc giám đốc (tổng giám đốc) là người đại diện theo pháp luật của công ty. Chủ tịch công ty có thể kiêm nhiệm hoặc thuê người khác làm giám đốc (hoặc tổng giám đốc) do điều lệ công ty quy định.
5.3 Các quy định đặc biệt đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
Do Công ty trách nhiêm một thành viên được thành lập bởi một cá nhân hoặc một pháp nhân, nên pháp luật cả hai nước đều có những quy định đặc biệt về tổ chức và hoạt động nhằm đảm bảo hoạt động của Công ty cũng như của người thứ ba.
Pháp luật hai nước đều quy định về việc phải tách biệt tài sản của chủ sở hữu công ty với tài sản của công ty. Đối với chủ sở hữu công ty là cá nhân còn phải tách biệt các chi tiêu của cá nhân và gia đình với các chi tiêu trên cương vị là chủ tịch công ty và giám đốc. Và chủ sở hữu công ty chỉ phải chịu trách nhiệm trong phần vốn góp đã góp vào công ty.
Về chế độ vốn của Công ty có những quy định khác biệt:
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chủ sở hữu công ty chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn điều lệ cho tổ chức hoặc cá nhân khác.
Không được rút lợi nhuận khi công ty không thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ khác.
Còn theo quy định tại điều 59 của Luật công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần Trung Quốc lạị có những quy định về số vốn tối thiểu của Công ty là 100.000 Nhân dân tệ. Mặt khác, mỗi cá nhân chỉ được phép thành lập một công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Quy định này có sự đồng nhất với quy định của pháp luật Việt Nam đối với doanh nghiệp tư nhân.
VI Công ty cổ phần
Đây là loại hình công ty đối vốn điển hình, trong đó có những đặc điểm nổi bật của loại hình công ty này như khả năng huy động vốn, trình độ tổ chức và hoạt động mang tính xã hội hoá cao, khả năng phát triển và mở rộng các quan hệ liên kết tư bản..Tuy nhiên, công ty cổ phần có những hạn chế nhất định. Trước hết là chế độ trách nhiệm hữu hạn, sự tham gia đông đảo của công chúng vào đời sống công ty…Những điều đó có thể gây nguy hiểm cho các chủ nợ, sự phân chia quyền lực cho các nhóm cổ đông…Do đó, pháp luật đề ra những biện pháp bảo đảm an toàn chặt chẽ về mặt pháp lý cho những người có vốn tham gia vào công ty cổ phần. Pháp luật đề cập đến những vấn đề đó là:
– Pháp luật có những quy định đặc biệt về quá trình thành lập công ty. Quá trình thành lập phải được thẩmđịnh bởi các chuyên gia kiểm toán độc lập có chuyên môn giỏi;
– Pháp luật quy định các chế định bắt buộc về qúa trình thành lập, tổ chức và chế độ trách nhiệm của công ty;
– Các công ty cổ phần phải thực hiện chế độ nghiêm ngặt về kế toán thống kê và báo cáo tài chính. Bảng cân đối và báo cáo tài chính hàng năm phải được các chuyên gia pháp lý, kinh tế, kiểm toán thẩm định. Pháp luật yêu cầu mọi tài liệu, sổ sách kế toán, tài chính của công ty phải được công khai hoá. Tất cả các cổ đông và công chúng đều có quyền được thông tin về hoạt động của công ty;
– Công ty cổ phần muốn phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng phải có bản giải trình luận chứng trong đó ghi tính chất và hình thức của các cổ phiểu phát hành.
6.1 Khái niệm và đặc điểm
Công ty cổ phần là loại hình công ty mà vốn công ty được phân chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty cho đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu.
Công ty cổ phần có những đặc điểm:
– Về thành viên công ty: trong quá trình hoạt động ít nhất phải có ba thành viên tham gia công ty cổ phần. Là loại công ty đặc trưng cho công ty đối vốn, cho nên có sự liên kết của nhiều thành viên và vì vậy, việc quy định số thành viên tối thiểu phải có đã trở thành thông lệ quốc tế.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam không có giới hạn về số thành viên của công ty cổ phần nhưng theo quy định của pháp luật Trung Quốc có quy định về giới hạn cổ đông sáng lập của côngty cổ phần từ 2 đến 200 người.
– Vốn điều lệ của Công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phần và được phản ánh trong cổ phiếu. Một cổ phiếu có thể phản ánh mệnh giá của một hay nhiều cổ phần.
– Tính tự do chuyển nhượng phần vốn góp: Phần vốn góp của các thành viên được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ phiếu do công ty phát hành là một loại hàng hoá. Người có cổ phiếu có thể tự do chuyển nhượng theo quy định của pháp luật.
– Về chế độ trách nhiệm: Công ty cổ phần chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của công ty. Các cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty (tức là đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu);
– Trong quá trình hoạt động, công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu) ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán để huy động vốn. Điều này thể hiện khả năng huy động vốn lớn của công ty cổ phần.
– Công ty cổ phần là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Công ty có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
6.2 Cổ phần và cổ phiếu
Cổ phần là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ của công ty, được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Giá trị mỗi cổ phần (mệnh giá cổ phần) do công ty quyết định và ghi vào cổ phiếu.
Cổ phần của công ty cổ phần có thể tồn tại dưới hai loại: cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. Công ty phải có cổ phần phổ thông. Người sở hữu cổ phần phổ thông gọi là cổ đông phổ thông. Công ty có thể có cổ phần ưu đãi.
6.3 Vốn và chế độ tài chính
Với tính chất là loại hình công ty đặc trưng cho công ty đối vốn, nên các quy định về vốn và chế độ tài chính có ý nghĩa quan trọng.
Khi thành lập công ty phải có vốn điều lệ. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, số vốn này của công ty trong một số ngành nghề yêu cầu vốn pháp định không được thấp hơn mức quy định. Còn đối với các ngành nghề kinh doanh khác pháp luật không quy định.
Tuy nhiên, pháp luật Trung Quốc lại có quy định về mức vốn đăng ký tối thiểu 5.000.000 Nhân dân tệ. Mặt khác, đối với công ty cổ phần, theo quy định tại Điều 94 “Sau khi thành lập công ty cổ phần, nếu cổ đông sáng lập không góp vốn theo đúng quy định tại điều lệ của công ty thì phải góp bổ sung; các cổ đông sáng lập khác phải chịu trách nhiệm liên đới
Sau khi thành lập công ty cổ phần phát hiện ra giá trị tài sản thực tế của góp vốn vào công ty thấp hơn giá trị quy định trong điều lệ công ty thì cổ đông sáng lập phải góp vốn bổ sung, các cổ đông khác cũng phải chịu trách nhiệm liên quan”.
Nhằm đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư khi đầu tư vào công ty, pháp luật hai nước đều quy định về tỉ lệ phần trăm vốn góp của công ty do cổ đông sáng lập nắm giữ. Tuy nhiên, tỉ lệ phần trăm cụ thể này có mức độ khác nhau giữa quy định của pháp luật hai nước.
Luật doanh nghiệp Việt Nam và luật công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần Trung Quốc đều quy định tỉ lệ này là 35%, đồng thời quy định của pháp luật Trung Quốc còn quy định tỉ lệ phần trăm mà các cổ đông phải đóng góp lần đầu là 20% vốn điều lệ. Mặt khác, theo quy định tại điều 81 của Luật Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn Trung Quốc thì “Số vốn góp còn lại cổ đông sáng lập phải góp đủ trong vòng hai năm kể từ khi công ty thành lập. Trong đó, công ty đầu tư có thể phải góp đủ trong vòng 5 năm. Vốn đăng ký là tổng số vốn thực thu được đăng ký tại cơ quan đăng ký.” Công ty cổ phần được thành lập bằng phương thức góp vốn của các cổ đông sáng lập thì cổ đông sáng lập phải quy định trong điều lệ các cổ phần được mua. Nếu góp một lần thì thì phải góp toàn bốn số vốn. Nếu góp vốn nhiều lần thì thì phải góp vốn lần đầu ngay. Nếu góp vốn bằng tài sản thì cổ đông phải thực hiện các thủ tục chuyển đối tài sản theo quy định của pháp luật.
Nếu cổ đông sáng lập không góp vốn theo quy định trong điều lệ thì phải chịu các trách nhiệm theo thỏa thuận của các cổ đông đã được lập (Điều 81).
Để thu hút các nhà đầu tư, côngty có thể chào bán cổ phần ra công chúng.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Hội đồng quản trị định giá chào bán cổ phần. Giá chào bán cổ phần không được thấp hơn giá trị thị trường tại thời điểm chào bán, trừ các trường hợp:cổ phần chào bán lần đầu tiên sau khi đăng ký kinh doanh, cổ phần chào bán cho tất cả các cổ đông theo tỉ lệ phần trăm cổ phần hiện có của họ ở công ty và cổ phần chào bán cho người môi giới hoặc người bảo lãnh. Cổ phần được bán và người mua cổ phần trở thành cổ đông của Công ty.
Cổ phần phải được thanh toán đủ một lần. Sau khi thành toán đủ cổ phần đăng ký mua, cổ đông có quyền yêu cầu công ty cung cấp cổ phiếu cho mình.Trường hợp cổ phiếu bị mất, bị cháy hoặc bị tiêu huỷ dưới hình thức khác, cổ đông phải báo ngay cho công ty và có quyền yêu cầu công ty cấp lại cổ phiếu.
Pháp luật Việt Nam có quy định về việc người sở hữu cổ phần có quyền chuyển nhượng cổ phần của mình theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty. Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác. Cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là cổ đông nếu được sự chấp thuận của đại hội đồng cổ đông. Cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó.Sau thời hạn ba năm kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các hạn chế đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập bị bãi bỏ.
Cổ phần được coi là đã chuyển nhượng khi ghi đúng và đủ vào sổ đăng ký cổ đông các thông tin về tên, địa chỉ người nhận chuyển nhượng, số lượng cổ phần từng loại, ngày đăng ký cổ phần. Kể từ thời điểm đó, người nhận chuyển nhượng cổ phần trở thành cổ đông của công ty.
Cổ đông biểu quyết phản đối quyết định về việc tổ chức lại công ty hoặc thay đổi quyền, nghĩa vụ của cổ đông quy định tại điều lệ công ty, có quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần của mình. Công ty phải mua lại cổ phần trong trường hợp này trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Pháp luật Trung Quốc cũng có những quy định tương tự: Bên cạnh việc thành lập công ty cổ phần thông qua việc góp vốn của cổ đông sáng lập, công ty có thể kêu gọi vốn bên ngoài. Việc kêu gọi vốn ở bên ngoài phải tuân theo một số quy định nhất định của pháp luật về trình tự và thủ tục:
Công ty cổ phần được thành lập bằng phương thức góp vốn của các cổ đông sáng lập thì cổ đông sáng lập phải quy định trong điều lệ các cổ phần được mua. Nếu góp một lần thì thì phải góp toàn bốn số vốn. Nếu góp vốn nhiều lần thì thì phải góp vốn lần đầu ngay. Nếu góp vốn bằng tài sản thì cổ đông phải thực hiện các thủ tục chuyển đối tài sản theo quy định của pháp luật.
Nếu cổ đông sáng lập không góp vốn theo quy định trong điều lệ thì phải chịu các trách nhiệm theo thỏa thuận của các cổ đông đã được lập.
Sau khi cổ đông sáng lập góp vốn lần đầu phải bầu ra hội đồng quản trị và ban kiểm soát. Hội đồng quản trị phải nộp đơn, điều lệ công ty nộp chứng nhận góp vốn cho cơ quan kiểm tra vốn theo quy định của pháp luật và các văn bản khác theo quy định của pháp luật cho cơ quan đăng ký.
Cổ đông sáng lập kêu gọi cổ phần góp vốn bên thì phải công bố bản thuyết minh kêu gọi cổ phần đồng thời lập ra mẫu xác nhận cổ phần. Cổ đông sáng lập công khai kêu gọi góp cổ phần ngoài xã hội phải ký kết hợp đồng bán cổ phần cho công ty chứng khoán được thành lâp theo quy định của pháp luật. Cổ đông sáng lập công khai kêu gọi góp cổ phần ngoài xã hội phải ký hợp đồng thu thay cổ phần với ngân hàng. Ngân hàng nhận thu thay cổ phần phải thực hiện thu cổ phần và giữ cổ phần theo quy định của hợp đồng, phải xuất hóa đơn cho ngươi nộp cổ phần đồng thời có nghĩa vụ chứng minh khoản thu với các cơ quan chức năng.
Sau khi cổ phần phát hành được nộp đủ phải được công ty kiểm tra cổ phần kiểm tra đồng thời cấp giấy chứng nhận góp vốn. Trong vòng 30 ngày làm việc kể từ ngày góp đủ vốn thì các cổ đông sáng lập phải tiến hành đại hội. Đại hội đồng cổ đông gồm có cổ đông sáng lập và người xác nhận cổ phần.
Khi hết hạn chào bán cổ phần ra ngoài xã hội mà số lượng cổ phần không đủ để thành lập đại hội đồng cổ đông thì người xác nhận cổ phần có thể yêu cầu cổ đông sáng lập hoàn trả số tiền đồng thời phải trả thêm số lãi phát sinh tương đương số lãi trong cùng thời kỳ tại ngân hàng.
Mặt khác, theo quy định của pháp luật Việt Nam còn có quy định về mua lại cổ phần phổ thông của công ty là Công ty cổ phần có quyền mua lại không quá 30% tổng số cổ phần phổ thông đã bán, một phần hoặc toàn bộ cổ phần loại khác đã bán nhưng đối với pháp luật Trung Quốc không có những quy định này.
Công ty chỉ được quyền thanh toán cổ phần mua lại cho cổ đông nếu ngay sau khi thanh toán hết sổ cổ phần được mua lại, công ty vẫn bảo đảm thanh toán hết số cổ phần được mua lại, công ty vẫn đảm bảo thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác. Các cổ phần được mua lại được coi là cổ phần chưa bán trong số cổ phần được quyền chào bán công ty. Sau khi thanh toán hết số cổ phần mua lại, nếu tổng giá trị tài sản của công ty (ghi trong sổ kế toán) giảm hơn 10% thì công ty phải thông báo điều đó cho tất cả chủ nợ biết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thanh toán hết số cổ phần mua lại.
Trong quá trình hoạt động, công ty cổ phần có quyền phát hành trái phiếu theo quy định của pháp luật để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh. Công ty có thể phát hành trái phiếu theo quy định của pháp luật để đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh. Công ty có thể phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các loại trái phiếu khác theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty. Hội đồng quản trị công ty quyết định trái phiếu, tổng giá trị trái phiếu và thời điểm phát hành.
Việc thanh toán cổ tức cho các cổ đông của công ty cổ phần chỉ được tiến hành khi công ty kinh doanh có lãi, đã hòan thành nghĩa vụ nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật và ngay khi trả hết số cổ tức đã định, công ty vẫn thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài chính khác đến hạn phải trả.
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có chế độ tài chính rất phức tạp, nó đòi hỏi một chế độ kế toán và kiểm toán, thống kê rất chặt chẽ và thích hợp để bảo vệ quyền lợi của các chủ thể có liên quan. Luật doanh nghiệp đã đưa ra nhiều quy định về chế độ tài chính của công ty cổ phần. Công ty phải lập sổ kế toán, hoá đơn, chứng từ và lập báo cáo tài chính trung thực chính xác. Công ty phải kê khai định kỳ và báo cáo đầy đủ, chính xác các thông tin về công ty và tình hình tài chính của công ty với cơ quan đăng ký kinh doanh. Báo cáo tài chính hàng năm của công ty do Đại hội đồng cổ đông xem xét và thông qua. Đối với công ty cổ phần mà pháp luật yêu cầu phải được kiểm toán độc lập xác nhận trước khi trình đại hội đồng cổ đông. Báo cáo tài chính hàng năm phải được gửi đến cơ quan thuế và cơ quan đăng ký kinh doanh. Tóm tắt báo cáo tài chính hàng năm phải được thông báo đến tất cả các cổ đông. Mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền xem hoặc sao chép báo cáo tài chính hàng năm của công ty tại cơ quan đăng ký kinh doanh.
6.4 Tổ chức quản lý công ty
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có số vốn lớn, rất nhiều thành viên và việc tổ chức quản lý rất phức tạp, do đó cần phải một cơ chế quản lý. Cơ cấu tổ chức quản lý của Công ty cổ phần bao gồm các cơ quan sau: Đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị và giám đốc (Tổng giám đốc); Đối với công ty cổ phần có trên 11 cổ đông là cá nhân hoặc tổ chức sở hữu trên 50 % tổng số cổ phần của công ty phải có ban kiểm soát.
6.4.1 Đại hội đồng cổ đông
Đại hội đồng cổ đông là cơ quan có thẩm quyền quyết định cao nhất của Công ty gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết. Cổ đông có thể trực tiếp hoặc uỷ quyền cho người khác dự họp đại hội đồng cổ đông.
Còn theo quy định tại điều 99 của Luật Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần Trung Quốc lại quy định “Đại hội cổ đông của công ty cổ phần do toàn thể cổ đông hợp thành”.
Với những quy định như trên của pháp luật hai nước, Đại hội đồng cổ đông là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của Công ty cổ phần.
Là cơ quan tập thể, đại hội đồng cổ đông không làm việc thường xuyên mà chỉ hoạt động thông qua các cuộc họp và ra quyết định trên cơ sở biểu quyết tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến của các cổ đông bằng văn bản.
Cuộc họp đại hội đồng cổ đông
Đại hội cổ đông thực hiện các nghĩa vụ và thẩm quyền của mình thông qua các cuộc họp. Pháp luật của cả hai nước đều quy định cuộc họp thường kỳ của đại hội đồng cổ đông phải họp ít nhất mỗi năm một lần. Mặt khác theo quy định của pháp luật Việt Nam tại điều 97 thì “Đại hội đồng cổ đông phải họp thường niên trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày kết thúc năm tài chính”. Còn theo quy định của pháp luật Trung Quốc tại điều 101, còn quy định một số trường hợp Đại hội đồng cổ đông nên tiến hành họp hai tháng một lần trong một số trường hợp ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động kinh doanh của Công ty. Trong những trường hợp có tính chất tương tự, pháp luật Việt Nam lại quy định về cuộc họp bất thường của Đại hội đồng cổ đông như: Số thành viên của Hội đồng quản trị ít hơn so với quy định của pháp luật, Ban kiểm soát cho là cần thiết…
Pháp luật của cả hai nước đều quy định Đại hội đồng cổ đông có quyền xem xét và quyết định những vấn đề chủ chốt và quan trọng nhất của Công ty như:
– Báo cáo tài chính hằng năm;
– Báo cáo của Hội đồng quản trị đánh giá thực trạng công tác quản lý kinh doanh ở công ty;
– Báo cáo của Ban kiểm soát về quản lý công ty của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc;
– Mức cổ tức đối với mỗi cổ phần của từng loại;
– Các vấn đề khác thuộc thẩm quyền.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì cuộc họp củađại hội đồng cổ đông thì người triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông phải gửi thông báo mời họp đến tất cả cổ đông có quyền dự họp chậm nhất bảy ngày làm việc trước ngày khai mạc nếu Điều lệ công ty không quy định thời hạn. Thông báo được gửi bằng phương thức bảo đảm đến được địa chỉ thường trú của cổ đông.
Thông báo mời họp phải có tên, địa chỉ trụ sở chính, số và ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, nơi đăng ký kinh doanh của công ty; tên, địa chỉ thường trú của cổ đông hoặcc người đại diện theo uỷ quyền của cổ đông; thời gian và địa điểm họp.
Kèm theo thông báo mời họp phải có mẫu chỉ định đại diện theo uỷ quyền dự họp, chương trình họp, phiếu biểu quyết, các tài liệu thảo luận làm cơ sở thông qua quyết định và dự thảo nghị quyết đối với từng vấn đề trong chương trình họp.
Nếu công ty có trang thông tin điện tử thì thông báo mời họp và các tài liệu gửi kèm theo phải được công bố trên trang thông tin điện tử đó đồng thời với việc gửi thông báo cho các cổ đông.
đại hội đồng cổ đông được triệu tập bởi Hội đồng quản trị và do chủ tịch hội đồng quản trị triệu tập. Nếu chủ tịch của hội đồng quản trị không thể hoặc không thực hiện nghĩa vụ của mình thì phó chủ tịch của hội đồng quản trị sẽ chủ trì. Nếu phó chủ tịch không thể hoặc không thực hiện nghĩa vụ của mình thì thành viên được đề của bởi ít nhất một nửa số thành viên phải chủ trì hội đồng cổ đông.
Nếu Hội đồng quản trị hoặc giám đốc điều hành không hoàn thành nghĩa vụ điều hành hội đồng cổ đông thì ban kiểm soát sẽ phải chủ trì và điều hành hội đồng cổ đông. Nếu ban kiểm soát không chủ trì và điều hành hội đồng cổ đông thì các cổ đông sở hữu hoặc nắm giữ 1/10 hoặc nhiều hơn cổ phần của công ty sẽ có thể chủ trì và điều hành cuộc họp cổ đông.
Khiđại hội đồng cổ đông được tổ chức, các cổ đông sẽ được thông báo trước 20 ngày và trong thông báo sẽ nêu rõ thời gian, địa điểm họp cũng như các vấn đề sẽ được nêu ra tại cuộc họp. Khiđại hội đồng cổ đông bất thường được tổ chức, các cổ đông sẽ được thông báo trước 15 ngày. Khi phát hành các cổ phần không đăng ký thì thời gian, địa điểm và nội dung tại cuộc họp sẽ được thông báo trước 30 ngày.
Cổ đông sở hữu hoặc tập hợp của ít nhất 3% số cổ phần của công ty có thể đề xuất hợp bất thường Hội đồng quản trị trướcđại hội đồng cổ đông 10 ngày. Trong vòng 2 ngày, Hội đồng quản trị sẽ thông báo cho các cổ đông khác và trình đề xuất họp bất thường lênđại hội đồng cổ đông để xem xét. Nội dung của đề xuất họp bất thường sẽ phải nằm trong phạm vi được quyết định bởi hội đồng cổ đông và đề xuất sẽ phải có chủ đề rõ ràng để thảo luận và quyết định. Hội đồng cổ đông sẽ không quyết định bất cứ vấn đề gì không liệt kê trong thông báo đã nêu trong hai đoạn nêu trên. Nêu người nắm giữ cổ phần không đăng ký tham giađại hội đồng cổ đông thì cổ phần của họ sẽ được lưu giữ tại công ty 05 ngày trước khiđại hội đồng cổ đông được tổ chức đến ngàyđại hội đồng cổ đông kết thúc.
Quyền dự họp đại hội đồng cổ đông
Pháp luật Việt Nam quy định tại điều 101 thì “Cổ đông là cá nhân, người đại diện theo uỷ quyền của cổ đông là tổ chức trực tiếp hoặc uỷ quyền bằng văn bản cho một người khác dự họp Đại hội đồng cổ đông. Trường hợp cổ đông là tổ chức không có người đại diện theo uỷ quyền thì uỷ quyền người khác dự họp Đại hội đồng cổ đông.
Việc uỷ quyền cho người đại diện dự họp Đại hội đồng cổ đông phải lập thành văn bản theo mẫu của công ty và phải có chữ ký theo quy định sau đây:
– Trường hợp cổ đông là cá nhân là người uỷ quyền thì phải có chữ ký của cổ đông đó và người được uỷ quyền dự họp;
– Trường hợp người đại diện theo uỷ quyền của cổ đông là tổ chức là người uỷ quyền thì -phải có chữ ký của người đại diện theo uỷ quyền, người đại diện theo pháp luật của cổ đông và người được uỷ quyền dự họp;
– Trong trường hợp khác thì phải có chữ ký của người đại diện theo pháp luật của cổ đông và người được uỷ quyền dự họp.
Người được uỷ quyền dự họp Đại hội đồng cổ đông phải nộp văn bản uỷ quyền trước khi vào phòng họp.
Theo quy định của pháp luật Trung Quốc thì “Khi cổ đông tham dựđại hội đồng cổ đông, họ sẽ có quyền bỏ phiếu cho mỗi cổ phần họ nắm giữ. Tuy nhiên, công ty lại không có quyền bỏ phiếu cho cổ phần của công ty. Khi nghị quyết của hội đồng cổ đông được lập, nghị quyết đó sẽ được chấp thuận bởi các cổ đông đại diện cho hơn nửa cổ đông có quyền bỏ phiếu. Tuy nhiên, khi hội đồng cổ đông quyết định để sửa đổi điều lệ hoặc tăng hoặc giảm vốn đăng ký hoặc nghị quyết về chia, tách, sáp nhập hoặc thay đổi hình thức công ty thì nghị quyết sẽ được thông qua bởi 2/3 cổ đông đại diện hoặc nhiều hơn các cổ đông có quyền bỏ phiếu. Đối với các vấn đề quan trọng như chuyển nhượng công ty, chuyển nhượng tài sản hoặc cung cấp sự đảm lảnh cho bất cứ người naòi khác mà những vấn đề đó được quyết định thông qua hội đồng cổ đông theo luật này và điều lệ của tổ chức, Hội đồng quản trị sẽ kêu gọi hội đồng cổ đông bỏ phiếu đúng thời hạn.”
6.4.2 Hội đồng quản trị
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý của Công ty cổ phần, do đại hội đồng cổ đông bầu ra.
Số lượng thành viên của Hội đồng quản trị theo quy định của pháp luật Việt Nam không ít hơn 3 thành viên và không quá 11 thành viên. Số lượng cụ thể do điều lệ công ty quy định.
Còn theo quy định điều 109 Luật công ty trách nhiệm và công ty cổ phần Trung Quốc số lượng thành viên của Hội đồng quản trị là từ 5-19 người. Các thành viên này phải thường trú tại Việt Nam hoặc Trung Quốc. Hội đồng quản trị có toàn quyền nhân danh Công ty để quyết định thực hiện các nghĩa vụ và quyền hạn của Công ty không thuộc quyết định của Đại hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị có quyền và nhiệm vụ cụ thể theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ Công ty.
Hội đồng quản trị có chủ tịch, một (nhiều) phó chủ tịch và các thành viên. Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm về những sai phạm trong quản lý, hoạt động của Công ty. Theo quy định của pháp luật Trung Quốc tại điều 111 thì “Hội đồng quản trị sẽ chủ trì ít nhất hai cuộc họp hàng năm và sẽ thông báo cho tất cả các thành viên và kiểm sát viên 10 ngày trước khi cuộc họp tiến hành.1/10 đại diện cổ đông hoặc nhiều hơn hoặc 1/3 sồ thành viên, hoặc ban kiểm soát có thể để xuất tổ chức cuộc họp ban giám đốc tạm thời. Chủ tịch ban giám đốc sẽ chủ trì và tổ chức cuộc họp ban giám đốc trong vòng 10 ngày sau khi nhận được để xuất. Nếu Hội đồng quản trị tổ chức cuộc họp bất thường thì phải thông báo thời gian và phương pháp chủ trì cuộc họp với Hội đồng quản trị”.
6.4.3 Giám đốc (tổng giám đốc)
Là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ được giao.
6.4.4 Ban kiểm soát
Công ty cổ phần có trên 11 cổ đông phải có Ban kiểm soát gồm từ 3 đến 5 thành viên. Các kiểm soát viên do đại hội đồng cổ đông bầu ra. Ban kiểm soát có hơn một nửa số thành viên thường trú tại Việt Nam. Ban kiểm soát thay mặt các cổ đông kiểm soát các hoạt động của công ty, chủ yếu là các vấn đề tài chính. Vì vậy, thành viên Ban kiểm soát ít nhất phải có một người có trình độ chuyên môn về kế toán. Ban kiểm soát bầu một thành viên làm trưởng ban. Quyền và nhiệm vụ của trưởng ban kiểm soát do điều lệ công ty quyết định và điều lệ công ty Ban kiểm soát chịu trách nhiệm trước đại hội đồng cổ đông về thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn được giao.
Pháp luật Trung Quốc cũng có những quy định về việc thành lập Ban kiếm soát của công ty cổ phần. Tuy nhiên, đặc điểm của công ty cổ phần bắt buộc phải thành lập Ban kiểm soát thì không có quy định của pháp luật. Theo quy định tại điều 118 “Công ty cổ phần sẽ thành lập một ban kiểm soát và ban kiểm soát có ít nhất 3 thành viên”.
Về chức năng và nhiệm vụ của Ban kiểm soát, pháp luật hai nước đều có những quy định tương đối giống nhau, trong đó Ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên của Công ty không có Ban kiểm soát sẽ thực hiện các quyền sau đây:
– kiểm tra các công việc tài chính của Công ty;
– giám sát các hoạt động liên quan tới nghĩa vụ của giám đốc và người điều hành công ty, và đưa ra các đề xuất sa thải giám đốc hoặc người điều hành đã vi phạm các quy định của pháp luật, các quy định của nhà nước, điều lệ hoạt động của doanh nghiệp hoặc nghị quyết của cuộc họp của các thành viên;
– yêu cầu giám đốc hoặc người điều hành Công ty sửa chữa các hành động làm tổn hại tới lợi ích của Công ty;
– đề xuất triệu tập các cuộc họp bất thường của các thành viên Công ty, triệu tập và chủ trì cuộc họp này khi Ban giám đốc không thực hiện được chức năng triệu tập và chủ trì cuộc họp của các thành viên Công ty như quy định tại Luật này;
– đưa ra các đề xuất tại cuộc họp của các thành viên;
– các nghĩa vụ khác theo quy định của Điều lệ hoạt động Công ty.
Để đảm bảo tính độc lập, vô tư, khách quan trong hoạt động của Ban kiểm soát và kiểm soát viên, những người sau đây không được làm thành viên ban kiểm soát:
– Thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc (Tổng giám đốc), người có liên quan của thành viên Hội đồng quản trị, người có liên quan của thành viên Hội đồng quản trị, của giám đốc (giám đốc), kế toán trưởng;
– Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc bị toà án tước quyền hành nghề vì phạm tội buôn lậu, làm hàng giả, buôn bán hàng giả, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lười dối khách hàng và các tội khác theo quy định của pháp luật.
Tương tự như vậy, nhằm đảm bảo cho hoạt động của Ban kiểm soát được công minh và khách quan, pháp luật Trung Quốc cũng có những quy định về điều kiện trở thành thành viên Ban kiểm soát đó là thành viên Ban kiểm soát không được đồng thời là Giám đốc hoặc nguyên giám đốc (Điều 118).
Nhiệm kỳ của ban kiểm soát, chế độ làm việc và thù lao cho thành viên Ban kiểm soát do Đại hội đồng cổ đông quyết định hoặc được quy định trong điều lệ công ty.
Pháp luật Trung Quốc có những quy định về hoạt động của Ban kiểm soát thông qua cuộc họp. Theo quy định của Điều 120 Ban kiểm soát sẽ họp tối thiểu là sáu tháng một lần. Kiểm soát viên có thể đề xuất tiến hành các cuộc họp bất thường của Ban kiểm soát.
Phương thức thảo luận và thủ tục bỏ phiếu của Ban kiểm soát sẽ được quy định trong điều lệ hoạt động của Công ty trừ trường hợp khác theo quy định của Luật này.
Nghị quyết của Ban kiểm soát sẽ được thông qua bởi ít nhất một nửa thành viên của Ban kiểm soát. Ban kiểm soát sẽ lập biên bản các nghị quyết về các vấn đề thảo luận và các thành viên Ban kiểm soát tham dự ký tên.
Đây là quy định mang tính khác biệt khá lớn về tổ chức và hoạt động của Ban kiểm soát theo quy định của pháp luật hai nước.
Như vậy, Công ty cổ phần có cơ cấu tổ chức và quản lý phức tạp nhất so với các loại hình công ty khác, giữa các cơ quan có sự phân công các chức năng cụ thể và giám sát lẫn nhau trong mọi công việc.
Có một sự khác biệt giữa quy định của pháp luật hai nước về cơ cấu quản lý của các loại hình doanh nghiệp. Đó là trong cơ cấu tổ chức quản lý của công ty đều có đại diện của người lao động tham gia. Những đại diện này được người lao động trong công ty bầu cử một cách dân chủ thông qua hội nghị của người lao động. Điều này sẽ có tác dụng giúp cho các cơ quan này hoạt động một cách hiệu quả và phục vụ lợi ích của người lao động trong công ty.
VII Giải thể và thanh lý doanh nghiệp
Pháp luật hai nước đều có những quy định riêng về việc sáp nhập, giải thể và thanh lý doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sau thời gian hoạt động có thể chấm dứt hoạt động kinh doanh. Tuỳ thuộc vào từng lý do khác nhau, mà pháp luật hai nước có những quy định riêng.
7.1 Giải thể
Theo quy định tại điều 181 Luật công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần thì Doanh nghiệp bị giải thể nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
– Thời gian hoạt động của doanh nghiệp quy định tại điều lệ hoạt động hết hoặc có định về vấn đề giải thể của công ty quy định tại điều lệ hoạt động của công ty;
– Hội đồng thành viên hoặc hội nghị của thành viên công ty quyết định giải thể công ty;
– Xét thấy cần thiết giải thể hoặc chia tách công ty;
– Giấy phép kinh doanh bị thu hồi hoặc đóng cửa hoặc huỷ bỏ theo quy định của pháp luật; hoặc
– Toà án nhân dân quyết định giải thể theo quy định
Còn theo quy định của pháp luật Việt Nam, doanh nghiệp bị giải thể trong các trường hợp sau đây:
– Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong Điều lệ công ty mà không có quyết định gia hạn;
– Theo quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân; của Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn; của Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần;
– Công ty không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo quy định của Luật này trong thời sáu tháng liên tục;
– Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Như vậy, các trường hợp giải thể doanh nghiệp của công ty có sự khá thống nhất. Tuy nhiên, về bản chất, thủ tục giải thể là một thủ tục hành chính, do đó doanh nghiệp chỉ được phép giải thể trong trường hợp đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Trình tự thanh toán các khoản nợ:
Các khoản nợ của doanh nghiệp được thanh toán theo thứ tự sau đây:
– Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác của người lao động theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết;
– Nợ thuế và các khoản nợ khác.
Sau khi đã thanh toán hết các khoản nợ và chi phí giải thể doanh nghiệp, phần còn lại thuộc về chủ doanh nghiệp tư nhân, các thành viên, cổ đông hoặc chủ sở hữu công ty.
7.2 Chia tách
Pháp luật hai nước đều quy định về việc công ty có quyền chia tách trong hoạt động của mình. Tuy nhiên, việc chia tách công ty phải thông báo tới cơ quan đăng ký kinh doanh.
7.3 Sáp nhập doanh nghiệp
Quy định của pháp luật Việt Nam về sáp nhập doanh nghiệp:
1. Một hoặc một số công ty cùng loại (sau đây gọi là công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (sau đây gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.
2. Thủ tục sáp nhập công ty được quy định như sau:
– Các công ty liên quan chuẩn bị hợp đồng sáp nhập và dự thảo Điều lệ công ty nhận sáp nhập. Hợp đồng sáp nhập phải có các nội dung chủ yếu về tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty nhận sáp nhập; tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty bị sáp nhập; thủ tục và điều kiện sáp nhập; phương án sử dụng lao động; thủ tục, thời hạn và điều kiện chuyển đổi tài sản, chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty bị sáp nhập thành phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty nhận sáp nhập; thời hạn thực hiện sáp nhập;
– Các thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc các cổ đông của các công ty liên quan thông qua hợp đồng sáp nhập, Điều lệ công ty nhận sáp nhập và tiến hành đăng ký kinh doanh công ty nhận sáp nhập theo quy định của Luật. Trong trường hợp này, hồ sơ đăng ký kinh doanh phải kèm theo hợp đồng sáp nhập. Hợp đồng sáp nhập phải được gửi đến tất cả các chủ nợ và thông báo cho người lao động biết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày thông qua;
– Sau khi đăng ký kinh doanh, công ty bị sáp nhập chấm dứt tồn tại; công ty nhận sáp nhập được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị sáp nhập.
3. Trường hợp sáp nhập mà theo đó công ty nhận sáp nhập có thị phần từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại điện hợp pháp của công ty thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành sáp nhập, trừ trường hợp pháp luật về cạnh tranh có quy định khác.
Cấm các trường hợp sáp nhập các công ty mà theo đó công ty nhận sáp nhập có thị phần trên 50% trên thị trường có liên quan, trừ trường hợp pháp luật về cạnh tranh có quy định khác.
Theo quy định của pháp luật Trung Quốc, thì công ty bị sáp nhập sẽ giải thể.
C KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I Kết luận
Như vậy, thông qua nghiên cứu các quy định của pháp luật hai nước Việt Nam và Trung Quốc về các loại hình công ty: Doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, chúng ta sẽ có những cái nhìn cơ bản về:
Trình tự thủ tục thành lập công ty;
Khái niệm và đặc điểm của mỗi loại hình công ty;
Tổ chức và quản lý công ty;
Vốn và chế độ tài chính;
1.1 Trình tự thủ tục thành lập công ty
Tuỳ thuộc vào các đặc điểm riêng biệt, mà mỗi loại hình công ty có những thủ tục và trình tự khác nhau khi tiến hành thành lập. Tuy nhiên, về cơ bản các loại hình công ty này đều có những các bước như sau:
Bước 1: Trước hết, các thành viên công ty (sáng lập viên) cùng nhau thoả thuận và xây dựng điều lệ công ty, trong đó phải ghi rõ: Tên công ty, trụ sở, mục tiêu, vốn điều lệ, các quyền và nghĩa vụ của các thành viên công ty, phân chia lợi nhuận, cơ cấu hoạt động,..
Bước 2: Cử một hoặc nhiều người đại diện cho các thành viên (sáng lập viên) của công ty để tiến hành mọi thủ tục cần thiết. Công việc quan trọng nhất là tiếp nhận vốn góp của các thành viên và chuẩn bị hồ sơ để đăng ký công ty.
Bước 3: Đăng ký thành lập công ty với Cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền. Cơ quan đăng ký kinh doanh tiến hành các thủ tục thẩm tra cần thiết, sau đó sẽ cấp cho công ty Giấy đăng ký kinh doanh và ghi vào sổ đăng ký kinh doanh. Từ thời điểm này công ty có tư cách pháp nhân (ngoại trừ doanh nghiệp tư nhân) và có thể tiến hành được các thủ tục đăng ký kinh doanh.
1.2 Khái niệm và đặc điểm của mỗi loại hình công ty
Mỗi công ty có một khái niệm riêng biệt để từ đó phân biệt với các loại hình công ty khác. Mặt khác, cũng từ đó, các công ty có những đặc điểm khác nhau. Tuy nhiên, dù được tổ chức với loại hình nào thì công ty cũng được thành lập nên nhằm mục đích kinh doanh và phân chia lợi nhuân. Bởi vậy, công ty có những đặc trưng cơ bản sau:
– Mục đích của việc thành lập công ty là để kinh doanh kiếm lời chia nhau;
– Công ty là sự liên kết của nhiều cá nhân hoặc pháp nhân, sự liên kết này thể hiện ở hình thức bên ngoài là một tổ chức;
– Các thành viên bỏ ra một số tài sản của mình để góp vào công ty. Đây là điều kiện quan trọng để thành lập công ty. Tuy nhiên, vai trò của vốn góp đối với các loại công ty là khác nhau.
Như vậy, công ty kinh doanh là một loại hình doanh nghiệp có sự liên kết của ít nhất là hai bên, các bên tham gia có thể là thể nhân, pháp nhân, nó hoàn toàn khác với doanh nghiệp một chủ sở hữu. Dấu hiệu phổ biến và cơ bản của các loại hình công ty là sự liên kết (ngọai trừ doanh nghiệp tư nhân).
1.3 Tổ chức và quản lý công ty
Công ty trách nhiệm hữu hạn bị giới hạn bởi só thành viên tham gia góp vốn vào công ty. Theo quy định của pháp luật Việt Nam và luật công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần Trung Quốc thì số thành viên nhỏ hơn hoặc bằng 50 thành viên. Mặc dù là loại hình công ty mang đặc điểm của công ty đối vốn, nhưng công ty trách nhiệm hữu hạn có một đặc điểm quan trọng là cá thành viên trong công ty hầu hết đều quen biết với nhau. Do đó, loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn có rất nhiều ưu điểm qua đó các chủ đầu tư rất ưa chuộng để tiến hành thực hiện các dự án kinh doanh của mình.
Còn theo quy định của pháp luật công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần Trung Quốc thì số cổ đông sáng lập của Công ty cổ phần là từ 2-200 thành viên, còn đối với công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam thì số thành viên không bị giới hạn.
Tổ chức và quản lý công ty là những bộ phận tạo thành công ty, qua đó tiến hành các hoạt động kinh doanh. Cơ cấu tổ chức của công ty bao gồm ba loại công ty: Cơ quan đại diện chủ sở hữu, bộ máy điều hành, cơ quan giám sát (ngoại trừ doanh nghiệp tư nhân).
1.3.1 Đối công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên
Hội đồng thành viên (là cơ quan đại diện chủ sở hữu): Là cơ quan bao gồm tất cả các thành viên của công ty, là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên. Cơ quan này có những quyền hạn và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và điều lệ hoạt động của công ty.
Ban giám đốc (giám đốc): Là cơ quan (hoặc cá nhân) điều hành hoạt động của công ty. Cơ quan này do Hội đồng thành viên cử ra hoặc thuê.
Ban kiểm soát (Cơ quan giám sát) đối với công ty có từ mười một thành viên trở lên. Đây là cơ quan kiểm soát tài chính của công ty là chủ yếu. Quyền và nghĩa vụ của ban kiểm soát được pháp luật và điều lệ hoạt động công ty quy định. Thông thường, trong Ban kiểm soát thường có kiếm soát viên có trình độ chuyên môn về tài chính để tiến hành các nhiệm vụ của Ban kiểm soát được quy định.
1.3.2 Đối với công ty cổ phần
Công ty cổ phần cũng có cơ cấu tổ chức gồm: Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban giám đốc và Ban kiểm soát.
Ban kiểm soát của công ty cổ phần cũng được tổ chức đối với công ty có từ 11 thành viên trở lên.
Còn đối với công ty cổ phần theo pháp luật Trung Quốc có cơ cấu tổ chức: Đại hội cổ đông, Ban giám đốc và ban kiểm soát. Đối với những công ty cổ phần có quy mô nhỏ có thể không thành lập Ban kiểm soát mà chỉ có Kiểm soát viên hoặc không.
1.3.3 Doanh nghiệp tư nhân
Với đặc điểm đặc trưng là doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp của một chủ sở hữu nên doanh nghiệp tư nhân có cơ cấu tổ chức rất đơn giản. Chủ sở hữu có thể tự mình tiến hành các hoạt động quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của mình. Hoặc chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân có thể thuê người quản lý, điều hành doanh nghiệp thay mình. Tuy nhiên, chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân là người đại diện trước pháp luật về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình.
1.4 Vốn và chế độ tài chính
Đối với tất cả các loại hình công ty, chế độ vốn và tài chính của doanh nghiệp bao giờ cũng là một trong những quy định quan trọng. Bởi vì, các công ty muốn tiến hành hoạt động tốt, hiệu quả cần có những quy định rõ ràng, cụ thể về vốn và chế độ tài chính. Từ đó, doanh nghiệp có thể tiếp tục tiến hành các hoạt động phân chia lợi nhuận với các thành viên sáng lập nên công ty.
1.4.1 Công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên
Công ty trách nhiệm hữu hạn có nguồn vốn điều lệ được góp bởi các thành viên công ty, và các thành viên này chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Đây là đặc điểm đặc trưng quan trọng của công ty đối vốn. Các thành viên công ty được phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp đã góp vào công ty. Thành viên công ty muốn chuyển nhượng vốn cho người không phải là thành viên công ty rất khó.
1.4.2 Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp mà theo đó vốn được chia thành từng phần bằng nhau gọi là cổ phần. Đây là đặc điểm quan trọng của công ty cổ phần so với các loại hình công ty khác.
Công ty cổ phần có thể dễ dàng huy động vốn góp ngoài công chúng, bên cạnh số vốn góp của các cổ đông sáng lập. Đồng thời, cổ đông dễ dàng chào bán số cổ phần của mình trừ một số trường hợp theo quy định của pháp luật.
1.4.3 Doanh nghiệp tư nhân
Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của doanh nghiệp. Nên doanh nghiệp tư nhân có chế độ vốn và tài chính đặc biệt. Chủ doanh nghiệp sẽ hưởng toàn bộ lợi nhuận sau khi làm các nghĩa vụ với nhà nước, trả lương cho người lao động,..
II Kiến nghị
Việc nghiên cứu pháp luật Việt Nam và pháp luật Trung Quốc về các quy định có liên quan tới ba loại hình: Doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có ý nghĩa hết sức quan trọng. Thông qua việc nghiên cứu này, chúng ta có thể rút ra được những ưu điểm cũng như nhược điểm của các quy định pháp luật từng nước. Từ đó, góp phần vào việc xây dựng các quy định của pháp luật nước mình được hoàn thiện hơn. Đồng thời, xu hướng kinh tế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang phát triển mạnh mẽ. Việc nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp sẽ giúp cho các doanh nghiệp Trung Quốc, còn việc nghiên cứu quy định của pháp luật Trung Quốc sẽ giúp cho các doanh nghiệp từ hiểu rõ đến hoạt động có hiệu quả tại nước bạn. Từ đó, góp phần vào việc xây dựng mối quan hệ kinh tế tốt đẹp từ trước tới nay của hai nước.
Tuy nhiên, nhằm góp phần xây dựng các mục đích được kể như trên, tác giả sau khi nghiên cứu các quy định của pháp luật hai nước cũng rút ra được một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, về đặc điểm thành viên của công ty cổ phần. Pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể về số lượng cổ đông sáng lập, còn pháp luật Trung Quốc quy định số lượng cổ đông sáng lập từ 2-200 người. Xét thấy, đây là một quy định hợp lý. Bởi lẽ, mặc dù công ty cổ phần là công ty đối vốn với đặc điểm là dễ dàng huy động vốn ngoài công chúng. Tuy nhiên, nhằm đảm bảo cho quyền lợi của các nhà đầu tư, những người mua cổ phần của công ty, pháp luật nên có quy định này để đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư thông qua việc hạn chế số lượng của các cổ đông sáng lập. Việc quy định này sẽ giúp cho hoạt động quản lý và điều hành công ty sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn. Từ đó, sẽ sự yên tâm cho các nhà đầu tư khi đầu tư vào công ty và đảm bảo quyền lợi cho họ.
Thứ hai, là các quy định về tổ chức và quản lý của các loại hình công ty. Đây là các bộ máy của công ty tiến hành điều hành và quản lý các hoạt động kinh doanh của Công ty. Bởi vậy, nếu các quy định của pháp luật về các vấn đề này phù hợp sẽ góp phần tạo điều kiện cho hoạt động của công ty được thuận lợi và nhanh chóng. Theo quy định của Luật công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần Trung Quốc về đặc điểm của các cơ quan: Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị, Ban giám đốc hoặc Ban kiểm soát có một ưu điểm đặc biệt. Trong cơ cấu của các cơ quan này đều có đại diện của người lao động trong công ty chiếm một tỉ lệ nhất định trong thành phần. Đại diện của người lao động trong công ty tham gia các cơ quan này thông qua việc bầu chọn của người lao động trong công ty một cách dân chủ. Những người đại diện của người lao động trong công ty sẽ làm việc trong các cơ quan này bên cạnh các thành viên được bầu hoặc bổ nhiệm. Quy định này của pháp luật Trung Quốc nhằm đảm bảo cho các cơ quan này điều hành hoạt động của công ty được tốt hơn. Nhưng quan trọng hơn, việc quy định này nhằm đảm bảo cho lợi ích của người lao động trong công ty. Bởi vậy, pháp luật Việt Nam cũng cần có những quy định tương tự nhằm đảm bảo cho lợi ích của người lao động trong công ty.
Thứ ba, là các quy định của pháp luật hai nước về việc thành lập Ban kiểm soát. Ban kiểm soát là cơ quan giữ vai trò quan trọng trong bộ máy của công ty, đóng vai trò giám sát các hoạt động tài chính của công ty cũng như việc thực hiện nhiệm vụ của những người có chức vụ tại công ty. Tuy nhiên, pháp luật Trung Quốc không có quy định cụ thể tại Luật công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần về quy mô của công ty như thế nào sẽ phải thành lập Ban kiểm soát, chỉ cần Kiểm soát viên hoặc không. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam lại có những quy định cụ thể đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có từ 11 thành viên trở lên phải thành lập Ban kiểm soát. Đây là một ưu điểm của quy định pháp luật Việt Nam so với pháp luật Trung Quốc về quy định để thành lập cơ quan này nhằm đảm bảo cho việc thành lập cơ quan này được cụ thể, qua đó có thể thực hiện được chức năng của nó được tốt hơn.
Thứ tư, là các quy định của pháp luật về chế độ vốn và tài chính. Pháp luật Việt Nam không có quy định về mức vốn tối thiểu đối với công ty, trừ một số ngành nghề kinh doanh mà pháp luật yêu cầu cần có vốn pháp định. Do đó, trên thực tiễn, tại Việt Nam, số lượng công ty được thành lập khá lớn. Tuy nhiên, lại có một số công ty được thành lập hoạt động không hiệu quả. Hoặc công ty thành lập chỉ là để “lách” luật, hoặc mua bán hoá đơn,…Còn theo quy định của pháp luật Trung Quốc có những quy định về mức vốn tối thiểu cho từng loại hình doanh nghiệp như sau:
Công ty trách nhiệm hữu hạn: Mức vốn tối thiểu là 30.000 Nhân dân tệ;
Công ty cổ phần: Mức vốn tối thiểu là 100.000 Nhân dân tệ;
Bởi vậy, tác giả xét thấy cần có những quy định của pháp luật về số vốn điều lệ tối thiểu mà các công ty phải đạt được. Thông qua quy định này, pháp luật sẽ giới hạn được một số lượng lớn các doanh nghiệp được thành lập với mục đích không hợp pháp hoặc hoạt động không hiệu quả.
Thứ năm, là các quy định về trình tự góp vốn đối với công ty trách nhiệm hữu hạn. Theo quy định của pháp luật Việt Nam về việc góp vốn của thành viên thì: Thành viên không đầy đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp được coi là nợ của thành viên đó đối với công ty và thành viên đó phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh do không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết. Người đại diện theo pháp luật của Công ty nếu không thực hiện nghĩa vụ thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh thì phải cùng thành viên chưa góp vốn liên đới chịu trách nhiệm đối với công ty về phần vốn chưa góp và các thiệt hại phát sinh do không đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết.
Đối với quy định của Pháp luật Trung Quốc về việc góp vốn, nếu có thành viên không thực hiện đúng và đủ số vốn đã cam kết góp vào Công ty, thì các thành viên thành lập Công ty phải liên đới chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa quy định của hai nước về trách nhiệm của các thành viên thành lập công ty. Trong trường hợp có thành viên không thực hiện nghĩa vụ góp vốn, thì phát sinh một quan hệ nghĩa vụ với công ty. Tuy nhiên, do đặc điểm của công ty trách nhiệm hữu hạn là các thành viên đều là những người quen biết và có mối quan hệ với nhau từ trước. Bởi vậy khi có một thành viên không thực hiện đúng nghĩa vụ góp vốn của mình, thì các thành viên còn lại phải liên đới chịu trách nhiệm với thành viên không thực hiện đúng nghĩa vụ của người đó. Với quy định này của pháp luật Trung Quốc sẽ càng khẳng định về các đặc điểm vừa mang tính đối vốn và vừa mang tính đối nhân của Công ty trách nhiệm hữu hạn. Tác giả nhận thấy đặc điểm này của pháp luật Trung Quốc là một quy định rất phù hợp, từ đó sẽ góp phần khiến các thành viên của công ty có trách nhiệm và gắn bó cho nhau, chứ không chỉ riêng là trách nhiệm của thành viên không thực hiện việc góp vốn với người đại diện theo pháp luật của Công ty.
Thứ sáu, là các quy định về việc góp vốn của các cổ đông sáng lập công ty cổ phần. Các cổ đông sáng lập của công ty cổ phần có thể tiến hành việc góp vốn của mình thông qua nhiều lần góp vốn. Mặc dù công ty cổ phần có thể dễ dàng huy động vốn kinh doanh ở ngoài công chúng, tuy nhiên, việc góp vốn điều lệ của công ty cổ phần cũng cần phải được thực hiện một cách đúng thời hạn để tiến hành công ty có thể bứơc đầu tiến hành các hoạt động kinh doanh. Mặt khác, việc góp vốn đúng trình tự và thời hạn sẽ giúp các cổ đông sáng lập gắn liền trách nhiệm của họ đối với công ty theo từng lần góp vốn. Cổ đông sáng lập của công ty cổ phần theo pháp luật Trung Quốc phải góp số vốn bằng 20% vốn điều lệ trong lần góp vốn đầu tiên. Quy định này của pháp luật Trung Quốc cần được học tập để quy định trong quy định của pháp luật Việt Nam.
Thứ bẩy, về vấn đề chia lợi nhuận cho các thành viên và cổ đông sáng lập của công ty. Đối với pháp luật Việt Nam khi quy định về các điều kiện phân chia lơi nhuận thì các thành viên công ty chỉ được phân chia lợi nhuận khi Công ty kinh doanh có lãi và đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của Công ty đối với nhà nước. Đồng thời vẫn phải bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản đến hạn trả khác sau khi chia lợi nhuận.
Pháp luật Trung Quốc lại có những quy định khác biệt về việc phân chia lợi nhuận. Trong đó, các thành viên công ty được phân chia lợi nhuận trong vòng hai năm kể từ khi Công ty được thành lập. Còn đối với công ty đầu tư thì pháp luật quy định thành viên công ty được phân chia lợi nhuận trong vòng 5 năm kể từ khi công ty được thành lập. Bởi vì công ty đầu tư có thời gian thu hồi lợi nhuận chậm hơn so với các công ty kinh doanh trong các ngành nghề kinh doanh khác.
Mặt khác, theo quy định của hai nước như trên thì pháp luật Trung Quốc có phần đảm bảo lợi ích cho các thành viên tham gia góp vốn vào công ty so với quy định của pháp luật Việt Nam.
PHẦN TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật doanh nghiệp Việt Nam 2005.
2. Luật doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc năm 2000.
3. Luật công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần năm 2006.
4. Mấy vấn đề về pháp luật kinh tế Cộng hoà liên bang Đức F. Kubler, J. Simon, NXB Pháp
lý năm 1992, trang 29
5. Tổ chức công ty, M.Corian, A.viandier, tập 1, viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ tư pháp, Hà Nội 1989, trang 7
6. Giáo trình Luật thương mại tập 1 Đại học Luật Hà Nội nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2007
CÔNG TY LUẬT LVN GROUP ( Sưu tầm)
(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)