Câu hỏi: So sánh dấu hiệu pháp lý của tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015 với tội mua dâm người dưới 18 tuổi Điều 329 Bộ luật Hình sự năm 2015 ?
Đáp:
* Giống nhau:
+ Đối tượng tác động: Người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
+ Đều có hành vi giao cấu thuận tình.
+ Đều là lỗi cố ý.
Động cơ, mục đích đều không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm.
+ Chủ thể của tội phạm đều là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
* Khác nhau:
+ Khách thể:
Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015: Tội xâm phạm vào danh dự nhân phẩm của con người, xâm phạm vào sự phát triển bình thường về thể chất sinh lý và tinh thần của trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi. Đối tượng tác động là người từ đủ 13 đến dưổi 16 tuổi.
Điều 329 Bộ luật hình sự năm 2015: Tội phạm xâm phạm vào trật tự an toàn công cộng gây ảnh hưởng xấu đến văn hóa, đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục của dân tộc và sự phát triển bình thường, lành mạnh về thể chất và tinh thần của người dưới 18 tuổi. Đối tượng tác động là người từ 13 đến dưới 18 tuổi.
+ Mặt khách quan:
Tội quy định tại Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015: Người phạm tội từ đủ 18 tuổi trở lên và nạn nhân có sự thuận tình để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác nhưng không có sự thỏa thuận về tiền bạc hoặc lợi ích vật chất mang tính mua bán để thực hiện hành vi giao cấu.
Tội quy định tại Điều 329 Bộ luật hình sự năm 2015: Người phạm tội từ đủ 18 tuổi trở lên và nạn nhân có sự thỏa thuận bằng tiền hoặc lợi ích vật chất khác mang tính chất mua bán để thực hiện hành vi giao cấu.
* Hình phạt: Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015: Ngoài hình phạt chính còn bổ sung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 đến 05 năm.
Điều 329 Bộ luật hình sự năm 2015: Ngoài hình phạt chính còn bổ sung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng.
Luật LVN Group phân tích chi tiết hơn nữa về hai tội danh này như sau:
1. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Điều 145 Bộ luật Hình sự 2015 quy định Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là độ tuổi trẻ em bắt đầu dậy thì, nhất là đối với các em nữ, các bộ phận nhạy cảm trên cơ thể cũng phát triển rõ rệt. Người phạm tội thường lợi dụng độ tuổi này để thực hiện tội phạm xâm hại tình dục trẻ em. Do vậy, pháp luật hình sự đặt ra quy định riêng về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Căn cứ pháp lý:
Điều 145 Bộ luật Hình sự quy định tội Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi như sau:
“Điều 145. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Người nào đủ từ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Có tính chất loạn luân;
d) Làm nạn nhân có thai;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
e) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.
Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Khách thể của tội phạm tại Điều 145 Bộ luật Hình sự
Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là hành vi của một người đã thành niên quan hệ tình dục với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Tội phạm xâm phạm sự phát triển về thể chất và sinh lý của trẻ em trong độ tuổi từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Như vậy, khách thể của tội phạm là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của trẻ em; thể chất, sinh lý và vấn đề tình dục của trẻ em trong độ tuổi từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Mặt khách quan của tội phạm tại điều 145 Bộ luật hình sự
Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Theo Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các Điều 141. 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi quy định:
Giao cấu là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào.
Thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi,…) dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây:
a) Đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác;
b) Dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi…), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác.
Nạn nhân của tội phạm này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi và không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật Hình sự. Tức là trường hợp nạn nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi bị dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của họ, người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điểm a khoản 1 Điều 142 – Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Trường hợp nạn nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi bị cưỡng dâm bởi người minh đang lệ thuộc hay trọng trạng thái quẫn bách, người phạm tội sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1 Điều 144 – Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. theo đó, trường hợp người phạm tội xâm hại đến tình dục đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không thuộc các trường hợp nêu trên thì phạm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Khác với tất cả các tội phạm xâm hại đến tình dục khác, tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi giao cấu quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi không cần dấu hiệu “trái ý muốn của họ”. Điều này nghĩa là, nếu người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi chấp nhận hay không chấp nhận để người phạm tội thực hiện hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác thì người thực hiện hành vi đó đều phạm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Điều 417 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 6 Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH quy định cách xác định tuổi của nạn nhân dưới 16 tuổi như sau:
Việc xác định tuổi của người bị hại dưới 16 tuổi căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu sau:
a) Giấy chứng sinh;
b) Giấy Khai sinh;
c) Chứng minh nhân dân;
d) Thẻ căn cước công dân;
đ) Sổ hộ khẩu;
e) Hộ chiếu.
Trường hợp đã áp dụng các biện pháp mà vẫn không xác định được chính xác thì ngày, tháng, năm của họ được xác định:
a) Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh.
b) Trường hợp xác định được quy nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh.
c) Trường hợp xác định được nửa năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng đinh.
d) Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.
Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi.
Tội phạm được coi là hoàn thành khi có hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Nếu chưa có hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác thì không cấu thành tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Chủ thể của tội phạm tại Điều 145 Bộ luật Hình sự
Tộ giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được thực hiện bởi bất kỳ người nào từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự.
Thứ nhất, tội phạm thực hiện bởi bất kỳ người nào. Đó có thể là công dân Việt Nam, người nước ngoài hay không quốc tịch. Chủ thể thực hiện tội phạm có thể là cá nhân, thực hiện hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác một mình. Nhưng cũng có thể là vụ án đồng phạm, nhiều người cùng thực hiện hành vi giao cấu hay quan hệ tình dục khác đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc có một người thực hiện việc giao cấu hay quan hệ tình dục khác nhưng có người chỉ huy, hướng dẫn, có người khác xúi giục, giúp sức để người đó thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác thành công.
Thứ hai, Điều luật quy định rõ chủ thể của tội phạm này phải là người từ 18 tuổi trở lên.
Thứ ba, người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Tức là người đó phải có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi. Nếu người đó phạm tội trong trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc bị hạn chế năng lực thì có thể được loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 21 Bộ luật hình sự.
Mặt chủ quan của tội phạm tại Điều 145 Bộ luật Hình sự
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội đã có đầy đủ nhận thức cũng như năng lực làm chủ hành vi. Người phạm tội hoàn toàn nhận thức được hậu quả xâm hại tình dục của trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nhưng vì để thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình nên mong muốn hậu quả đó xảy ra. Đối với tội phạm này, nạn nhân có thể đồng ý để người phạm tội thực hiện hành vi thỏa mãn nhu cầu tình dục hoặc hành vi của người phạm tội có thể trái ý muốn của nạn nhân. Dù nạn nhân đồng ý với hành vi của người phạm tội hay không thì cũng không ảnh hưởng đến việc người phạm tội phải chịu trách nhiệm về tội danh giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Các tình tiết định khung hình phạt cụ thể
a) Phạm tội 02 lần trở lên.
Theo Khoản 2 Điều 4 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi quy định:
Phạm tội 02 lần trở lên là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội từ 02 lần trở lên nhưng chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
b) Đối với 02 người trở lên.
Đây là trường hợp người phạm tội cùng thực hiện hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác đối với 02 người trở lên từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
c) Có tính chất loạn luân.
Theo Khoản 1 Điều 4 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tỉnh dục người dưới 18 tuổi quy định:
Có tính chất loạn luân là một trong các trường hợp sau đây:
– Phạm tội đối với người cùng dòng máu về trực hệ, với anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha;
– Phạm tội đối với cô ruột, dì ruột, chú ruột, bác ruột, cậu ruột, cháu ruột;
– Phạm tội đối với con nuôi, bố nuôi, mẹ nuôi;
– Phạm tội đối với con riêng của vợ, con riêng của chồng, bố dượng, mẹ kế;
– Phạm tội đối với con dâu, bố chồng, mẹ vợ, con rể.
d) Làm nạn nhân có thai.
Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi mà làm nạn nhân có thai là do hành vi giao cấu của người phạm tội mà nạn nhân có thai, tức là cái thai của nạn nhân là kết quả của việc giao cấu giữa người phạm tội với nạn nhân. Nếu nạn nhân tuy có bị hiếp dâm nhưng việc nạn nhân có thai lại là kết quả của việc giao cấu giữa nạn nhân với người khác thì người phạm tội hiếp dâm không phải chịu trách tình tiết “làm nạn nhân có thai”.
đ) Gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên.
Căn cứ để đánh giá mức độ thương tích, mức độ rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân là kết quả giám định pháp y theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ y tế quy định Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.
Đây là trường hợp người phạm tội ngoại trừ thực hiện hành vi xâm hại tình dục nạn nhân mà còn xâm hại đến sức khỏe của nạn nhân, gây thương tích ở mức đáng kể cho nạn nhân.
e) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.
Người phạm tội và người bị hại trong trường hợp này phải có mối quan hệ, trong đó người phạm tội có nghĩa vụ đối với người bị hại. Nghĩa vụ này xuất phát từ quan hệ huyết thống như bố mẹ đối với con cái, quan hệ giáo dục như thầy giáo đối với học sinh, quan hệ chữa bệnh như thầy thuốc với bệnh nhân,…
f) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.
Người phạm tội biết mình nhiễm HIV mà vẫn cưỡng dâm, tức là cố ý lây truyền HIV cho người khác bằng hành vi giao cấu, làm cho tính chất và mức độ của tội phạm nguy hiểm hơn nhiều so với trường hợp giao cấu hoặc thực hiện hành vi tình dục khác theo quy định tại Khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự.
*Hình phạt đối với người phạm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Điều 145 Bộ luật Hình sự quy định 04 khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:
– Khung hình phạt phạt tù từ 01 năm đến 05 năm tròng trường hợp người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Theo Điều 9 Bộ luật Hình sự, tội phạm này thuộc loại tội phạm nguy hiểm.
– Khung hình phạt phạt tù từ 03 năm đến 10 năm áp dụng khi người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: Có tính chất loạn luân; làm nạn nhân có thai; gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tinh thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% phạm tội 02 lần trở lên; đối với 02 người trở lên; tái phạm nguy hiểm. Căn cứ quy định phân loại tội phạm tại Điều 9 Bộ luật Hình sự, tội phạm này thuộc loại tội rất nghiêm trọng.
– Khung hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm áp dụng khi người phạm tội thuộc trong các trường hợp sau đây: Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.
– Khung hình phạt bổ sung, người phạm tội có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
2. Tội mua dâm người dưới 18 tuổi theo Điều 329 Bộ luật hình sự
Theo quy định tại Pháp lệnh phòng, chống mại dâm quy định tại khoản 2 Điều 3 thì “Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu.”
Như vậy, mua dâm người dưới 18 tuổi hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm chư đủ 18 tuổi để được giao cấu.
Tội mua dâm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 18 tuổi trở lên thực hiện, dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm chưa đủ 18 tuổi để được giao cấu.
Cấu thành tội mua dâm người dưới 18 tuổi:
Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội mua dâm người dưới 18 tuổi như sau:
“Điều 329. tội mua dâm người dưới 18 tuổi
1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mua dâm người dưới 18 tuổi trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 142 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Mua dâm 02 lần trở lên;
b) Mua dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;
c) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;
b) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
4. Người phạm tội còn bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”
Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Tội mua dâm người chưa thành niên là tội xâm phạm đến sự phát triển bình thường của người chưa thành niên về thể chất, tâm sinh lý, đồng thời xâm phạm đến trật tự trị an xã hội. Đối tượng tác động của tội phạm này là người dưới 18 tuổi, nhưng theo quy định tại Khoản 1 Điều 329 trên, thì đối tượng tác động phải là “người dưới 18 tuổi trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 142 của Bộ luật này” đối chiếu với quy định của Điều 142 điểm b, khoản 1 thì đối tượng của quy định này là người dưới 13 tuổi, như vậy đối tượng của tội mua dâm người dưới 18 tuổi là từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi. việc quy định như trên hoàn toàn hợp lý vì theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 142 thì bất kỳ hành vi giao cấu nào với người dưới 13 tuổi đều cấu thành tội hiếp dâm. Bên cạnh đó, đối tượng tác động của tội phạm này là những người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi và những người này phải là người bán dâm, nếu họ không phải là người bán dâm thì cũng không gọi mua dâm mà tùy vào trường hợp người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giao cấu với trẻ em quy định tại Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015.
Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội mua dâm người dưới 18 tuổi là hành vi mua dâm của người phạm tội được thực hiện với thủ đoạn khác nhau như: dùng tiền hoặc lợi ích khác trả cho người bán dâm để được giao cấu. Khi xác định hành vi mua bán dâm người chưa thành viên cần chú ý: việc mua bán dâm có thể bị cưỡng bức, bị mua chuộc dụ dỗ nên mới bán dâm; vì vậy, nếu trong quá trình giao cấu người được coi là “bán dâm” có biểu hiện của sự không đồng ý như chống cự, van xin hoặc miễn cưỡng để người mua dâm giao cấu thì tùy trường hợp người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm, cưỡng dâm, chứ không phải là mua dâm.
Đối với tội mua dâm, có thể gây ra những hậu quả nhưng nó không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, nếu gây ra thiệt hại đến sức khỏe cho người bán dâm có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật.
Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này đạt đến một độ tuổi nhất định và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này. tức họ là người có năng lực nhận thức và điều khiển hành vi phù hợp đòi hỏi của xa hội. Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thì Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định như sau:
“Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303, và 304 của Bộ luật này.”
Như vây, đối với tội phạm thông thường thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, ngay tại khoản 1 điều 329 quy định “Người nào đủ 18 tuổi trở lên mua dâm người dưới 18 tuổi trừ trường hợp quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 142 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.” Như vây, điều luật này đã xác định độ tuổi của người thực hiện hành vi phạm tội của tội này đó là người từ đủ 18 tuổi trở lên, do đó, những trường hợp phạm tội mà người phạm tội dưới 18 tuổi không là chủ thể của tội phạm này.
Tổng kết lại, thì chủ thể của tội mua dâm người dưới 18 tuổi phải là người đủ 18 tuổi và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi đáp ứng đòi hỏi của xã hội.
Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội mua dâm người chưa thành niên thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức là người phạm tội biết rõ việc mình bỏ tiền hoặc lợi ích vật chất ra là để trả cho người bán dâm và được giao cấu với người bán dâm, biết rằng đây là hành vi nguy hiểm, có thể gây hậu quả nghiêm trọng nhưng vẫn mong muốn được thực hiện tội phạm này.
Động cơ của người phạm tội là thỏa mãn dục vọng là chủ yếu. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người phạm tội vì những động cơ cá nhân khác như trả thù, truyền bệnh cho người bán dâm…
*Quy định về hình phạt đối với hành vi mua dâm người dưới 18 tuổi
Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 329 Bộ luật hình sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 329 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội mua dâm dưới 18 tuổi có thể bị phạt tù từ một năm đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng. Tuy nhiên, cần lưu ý về đối tượng phạm tội được quy định trong khoản này, vì đối chiếu với quy định tại điểm b, Khoản 2 thì đối tượng của tội phạm theo quy định của khoản này là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự
Phạm tội 02 lần trở lên tức là từ hai lần mua dâm người chưa thành niên trở lên nhưng không có lần nào thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật. Nếu có trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật thì không áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần đẻ áp dụng khoản 2 của điều luật nữa; nếu mua dâm người chưa thành niên nhiều lần nhưng có một lần là thuộc trường hợp quy định tại điêm b hoặc điểm c Khoản 2 của điều luật thì người phạm tội vừa bị áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần và tình tiết quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 2 của điều luật.
Mua dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi tức là thực hiện hành vi mua dâm mà người bán dâm là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Khi xác định trường hợp phạm tội này, chỉ cần xác định tuổi của người bán dâm.
Gây tổn hại sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 61%: Trường hợp phạm tội này là trường hợp do hành vi giao cấu với người bán dâm mà gây tổn hại đến sức khỏe của người bán dâm có tỷ lệ thương tật từ 31% đến 61%. nếu người bán dâm vì những nguyên nhân khác mà bị tổn hại sức khỏe thì người phạm tội không phải chịu trách nhiệm về việc tổn hại sức khỏe đó.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 của điều luật thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.
Phạm tội thuộc cấc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 256 Bộ luật hình sự
Phạm tội 02 lần trở lên đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi: trường hợp phạm tội này tương tự như đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 của điều luật nhưng mỗi lần phạm tội đều đối với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Khi áp dụng tình tiết này cần chú ý: Nếu mua dâm nhiều lần nhưng chỉ có một lần người bán dâm từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi còn các lần khác đã từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 của điều luật. Còn nếu mua dâm từ hai người trở lên trong đó có hai người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì cũng coi là phạm tội 02 lần trở lên đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên: Trường hợp phạm tội này là trường hợp do hành vi giao cấu với người bán dâm mà gây tổn hại cho sức khỏe của người bán dâm có tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.
Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
3. So sánh tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 với tội mua dâm người dưới 18 tuổi
* Giống nhau:
+ Đối tượng tác động: Người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
+ Đều có hành vi giao cấu thuận tình.
+ Đều là lỗi cố ý.
Động cơ, mục đích đều không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm.
+ Chủ thể của tội phạm đều không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm.
* Khác nhau
+ khách thể:
Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015: Tội xâm phạm vào danh dự nhân phẩm của con người, xâm phạm vào sự phát triển bình thường về thể chất sinh lý và tinh thần của trẻ em trong độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi. Đối tượng tác động là người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi.
Điều 329 Bộ luật hình sự năm 2015: Tội phạm xâm phạm vào trật tự an toàn công cộng gây ảnh hưởng xấu đến văn hóa, đạo đức, xã hội, thuần phong mỹ tục của dân tộc và sự phát triển bình thường, lành mạnh về thể chất và tinh thần của người dưới 18 tuổi. Đối tượng tác động là người từ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi.
+ Mặt khách quan:
Tội quy định tại Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015: Người phạm tội từ đủ 18 tuổi trở lên và nạn nhân có sự thuận tình để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác nhưng không có sự thỏa thuận về tiền bạc hoặc lợi ích vật chất mang tính mua bán để thực hiện hành vi giao cấu.
Tội quy định tại Điều 329 Bộ luật hình sự năm 2015: Người phạm tội từ đủ 18 tuổi trở lên và nạn nhân có sự thỏa thuận bằng tiền hoặc lợi ích vật chất khác mang tính chất mua bán để thực hiện hành vi giao cấu.
* Hình phạt: Điêu 145 Bộ luật hình sự năm 2015: Ngoài hình phạt chính còn bổ sung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cầm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 đến 05 năm.
Điều 329 Bộ luật hình sự năm 2015: Ngoài hình phạt chính còn hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triều đồng.
Trên đây là toàn bộ bài viết mà Luật LVN Group muốn cung cấp đến bạn đọc tham khảo. Nếu có thắc mắc vui lòng liên hệ tời tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến hotline 1900.0191 để được chuyên viên pháp luật tư vấn trực tiếp. Xin chân thành cảm ơn!