1. Tòa án Công lý quốc tế

Tiền thân của Tòa án Công lý Quốc tế (The International Court of Justice – ICJ) là Tòa án Thường trực Công lý Quốc tế (The Permanent Court of International Justice – PCIJ) – vốn là tòa án của Hội Quốc Liên ra đời vào năm 1922. Tòa PCIJ tồn tại cùng với sự tồn tại của Hội Quốc Liên cho tới khi UN được thành lập và ICJ ra đời thay thế cho PCIJ vào năm 1946.

Tòa có thẩm quyền áp dụng luật pháp quốc tế để giải quyết tất cả các tranh chấp pháp lý giữa các quốc gia nếu các quốc gia đồng ý với thẩm quyền của Tòa. Sự đồng ý chấp nhận thẩm quyền của Tòa của tất cả các bên tranh chấp là cơ sở pháp lý duy nhất để Tòa có thể xác lập thẩm quyền của mình đối với một tranh chấp cụ thể. Điều này phù hợp với một trong những nguyên tắc quan trọng của luật pháp quốc tế: không một quốc gia nào bị buộc phải mang tranh chấp của mình với quốc gia khác ra cơ quan tài phán quốc tế để giải quyết khi không có sự đồng ý của quốc gia đó.

Tòa án Công lý quốc tế là Tòa án được thành lập và hoạt động trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và Quy chế Tòa án Công lý quốc tế. Hiến chương Liên hợp quốc dành toàn bộ Chương XIV từ Điều 92 đến Điều 96 để quy định những vấn đề cơ bản về tổ chức, thẩm quyền và hoạt động của Tòa. Quy chế Tòa án Công lý quốc tế gồm 70 điều được coi là một phần phụ lục gắn bó hữu cơ với Hiến chương Liên hợp quốc. Trụ sở của ICJ đặt tại La Hay, Hà Lan.

2. Cơ cấu tổ chức

Vấn đề cơ cấu tổ chức ICJ được điều chỉnh bởi các Điều 2 – 33 của Quy chế TAQT (Statute of the Court) và Điều 1 – 18, 32 – 37 Luật của Tòa (Rules of the Court). Theo đó, ICJ sẽ có Chủ tịch (President), Phó Chủ tịch (Vice – president), Toàn thể Tòa (Full Court), ban xét xử (Chambers), Registrar và Registry. Chủ tịch và Phó Chủ tịch của ICJ được bầu chọn mỗi 3 năm và có thể tái nhiệm ở lần bầu cử tiếp theo. Toàn thể tòa gồm một hội đồng thẩm phán độc lập với 15 thành viên, trong đó không thể có 2 thành viên có cùng quốc tịch. Những thành viên được chọn sẽ trở thành đại diện cho hệ thống pháp luật thế giới. Việc lựa chọn các thành viên không căn cứ vào quốc tịch hay khu vực. Tuy nhiên, trên thực tế, những năm gần đây hội đồng thẩm phán thường bao gồm: 5 thẩm phán đại diện cho mỗi quốc gia thành viên thường trực Hội đồng Bảo an, 3 thẩm phán của Châu Á, 3 thẩm phán của Châu Phi, 2 thẩm phán củaMỹ Latin, 1 của Tây Âu, và 1 của Đông Âu.

Hội đồng xét xử:

Gồm có 15 thẩm phán được bổ nhiệm bởi Đại hội đồng LHQ và Hội đồng Bảo an LHQ dựa trên danh sách tiến cử bởi Tòa án Trọng tài thường trực. Nhiệm kỳ của tòa là 9 năm, không hạn chế việc tái đắc cử miễn là đảm bảo quy tắc không có hai thẩm phán cùng quốc tịch. Một phần ba tòa được bầu lại mỗi 3 năm và trong 5 thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ, mỗi nước luôn có một thẩm phán đại diện trong tòa. Vấn đề được quyết định theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, và mọi phán quyết được đưa ra là phán quyết cuối cùng, không phải phúc thẩm. Chánh án hiện tại (2009) là thẩm phán Hisashi Owada của Nhật Bản.

3. Thẩm quyền của Tòa

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của ICJ xác định trên sự đồng ý rõ ràng của các bên tranh chấp, đồng thời dựa vào thẩm quyền điều kiện giải quyết tranh chấp của Tòa quy định tại Điều 34, 35, 36 Quy chế Tòa.

Sự đồng ý của tất cả các bên tranh chấp có thể được thể hiện bằng nhiều cách như được trù định ở khoản 1 – 5 của Điều 36 Quy chế Tòa:

Các quốc gia có thể chấp nhận thẩm quyền của Tòa thông qua việc tham gia vào điều ước quốc tế có quy định phải chấp nhận thẩm quyền của Tòa;

Các quốc gia có thể tại bất kỳ thời điểm nào đưa ra tuyên bố chấp nhận thẩm quyền của Tòa. Phạm vi chấp nhận có thể không giới hạn, vô điều kiện hoặc có thể chấp nhận với điều kiện một hay một số quốc gia nhất định cũng chấp nhận có đi có lại như tế, hoặc giới hạn về nội dung tranh chấp, quốc gia tranh chấp hoặc thời hạn chấp nhận;

Các quốc gia có ký kết thỏa thuận đặc biệt (special agreement) để chấp nhận thẩm quyền của Tòa đối với một tranh chấp cụ thể sau khi tranh chấp phát sinh.

Nói cách khác, thẩm quyền của Tòa có thể xác lập dựa trên quy định của điều ước quốc tế, tuyên bố của các quốc gia và thỏa thuận đặc biệt. Ngoài ra, trong một số trường hợp đặc biệt, sự đồng ý chấp nhận thẩm quyền của Tòa có thể được đưa ra sau khi tuyên bố khởi kiện được đệ trình – trường hợp forum prorogatum.

Khoản 1 Điều 36 Quy chế Tòa án quốc tế quy định Tòa có thẩm quyền xét xử tất cả vụ việc mà các bên đưa ra và tất cả các vấn đề được nêu riêng trong Hiến chương Liên Hợp Quốc hoặc trong các hiệp ước, công ước quốc tế hiện hành. Tòa giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể là các quốc gia, không phân biệt quốc gia đó có phải là thành viên Liên Hợp Quốc hay không. Trong mọi trường hợp xảy ra tranh chấp, thẩm quyền của tòa được xác định trên cơ sở ý chí của chủ thể đang tranh chấp.

Sự đồng ý chấp nhận thẩm quyền của Tòa của tất cả các bên tranh chấp là cơ sở pháp lý duy nhất để Tòa có thể xác lập thẩm quyền của mình với một tranh chấp cụ thể.

Phương thức các bên chấp nhận thẩm quyền của Tòa bao gồm:

1. Quy định theo Điều ước quốc tế;

2. Thoả thuận thỉnh cầu;

3. Tuyên bố đơn phương chấp nhận thẩm quyền của Toà;

4. Thách kiện.

Các quốc gia có thể tại bất kỳ thời điểm nào đưa ra tuyên bố chấp nhận thẩm quyền của Tòa, và theo danh sách đã có 73 nước chấp nhận thẩm quyền của ICJ, trong đó khu vực Đông Nam Á có Campuchia, Philippines và Đông Timor.

3.1. Đối với tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc

Hiện nay, cả hai nước đều là thành viên của Quy chế Tòa. Tuy nhiên, Việt Nam chưa có 1 văn bản chính thức nào công nhận thẩm quyền của ICJ. Nếu Việt Nam vẫn tiếp tục đưa vụ việc ra khởi kiện, thì Việt Nam phải đơn phương công nhận thẩm quyền của ICJ trong riêng vụ kiện đó. Nhưng đối với Trung Quốc thì không chấp nhận thẩm quyền của tòa ICJ (tuyên bố của Trung Quốc năm 2006 gửi Liên Hợp Quốc, Điều 298). Có thể thấy rằng tính khả thi của việc khởi kiện Trung Quốc tại Tòa án Công lý quốc tế của Việt Nam là chưa thể sử dụng.

3.2.  Đối với tranh chấp giữa Việt Nam và Philippines

Vấn đề tranh chấp biển Đông giữa Việt Nam và Philippines cũng nằm trong loại tranh chấp Tòa giải quyết. Như đã nói ở trên, Việt Nam hiện nay chưa có một văn bản chính thức nào công nhận thẩm quyền của ICJ. Trong khi đó, năm 1972 Philippines đã thừa nhận thẩm quyền xét xử của Tòa nhưng bảo lưu lại loại trừ loại tranh chấp này. Không có khả năng cho Việt Nam kiện lên ICJ bằng một yêu cầu đơn phương và thụ hưởng thẩm quyền của Tòa án công lý quốc tế trên cơ sở của cơ chế đó.

3.3. Đối với tranh chấp giữa Việt Nam và Campuchia

Việt Nam chưa có một văn bản chính thức nào công nhận thẩm quyền của ICJ, còn Campuchia vào ngày 19/9/1957 đã đưa ra tuyên bố chấp nhận thẩm quyền của Tòa

Vấn đề phân định biên giới trên biển giữa Việt Nam và Campuchia thì Tòa chưa có thẩm quyền giải quyết.

3.4. Đối với tranh chấp giữa Việt Nam và Malaysia

Nếu muốn đưa tranh chấp Biển Đông giữa Việt Nam và Malaysia ra Toà án Công lý quốc tế giải quyết thì chưa thực sự thoả mãn điều kiện. Bởi vấn đề là hai nước chưa có một văn bản chính thức nào công nhận thẩm quyền của ICJ.

4. Sự chuẩn bị của Việt Nam khi muốn đưa các tranh chấp ra tòa ICJ

Đối với các tranh chấp với một số quốc gia trên biển Đông, Việt Nam trước tiên có thể giải quyết bằng con đường ngoại giao để có thể đạt được kết quả theo ý mong muốn nhất. Bởi thực tiễn cho thấy trong chủ trương giải quyết các tranh chấp quốc tế của mình bằng con đường đàm phán trực tiếp, Việt Nam hoan nghênh mọi nỗ lực từ bên ngoài trong việc biến khu vực Đông Nam Á trở thành một khu vực hòa bình, thịnh vượng và phát triển, trong đó công lý luôn được tôn trọng.

Tòa án công lý quốc tế là cơ quan duy nhất của Liên Hợp Quốc có thẩm quyền phán quyết về tranh chấp lãnh thổ nên Việt Nam vẫn nên sử dụng chức năng giải quyết tranh chấp của ICJ. Việt Nam có thể xem xét đưa ra tuyên bố đơn phương chấp nhận thẩm quyền của ICJ (3) hoặc đưa kiện vụ việc tranh chấp lên Tòa bằng phương thức xác định thẩm quyền Tòa theo vụ việc (2). Cơ sở pháp lý điều chỉnh hình thức xác định thẩm quyền theo vụ việc này được quy định tại Khoản 1, Điều 36 Đoạn 1, Điều 40 Quy chế Tòa án công lý quốc tế Điều 39 Nội quy hoạt động của Toà. Việt Nam và nước tranh chấp sẽ ký một hiệp ước gọi là thỏa thuận thỉnh cầu, đề nghị Tòa xem xét phân giải tranh chấp biển Đông. Hồ sơ đệ trình lên Tòa sẽ cần phải chuẩn bị gồm có:

  • Thoả thuận thỉnh cầu ký giữa Chính phủ hai nước
  • Biên bản trao đổi văn kiện phê chuẩn thỏa thuận thỉnh cầu.
  • Hai phụ lục về Văn kiện phê chuẩn của Việt Nam và Văn kiện phê chuẩn của nước còn lại do hai nước gửi thông báo chung tới Toà.

Bên cạnh đó, cũng đòi hỏi Việt Nam cần tích cực tận dụng các thiết chế khu vực để tác động đến Liên Hợp Quốc, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của các thiết chế quốc tế. Không những thế là sự truyền bá thông tin tình hình khu vực biển Đông cho các quốc gia khác để nhận sự ủng hộ từ các quốc gia khác.

Song song đó, Việt Nam cũng cần là tích cực nghiên cứu, củng cố lập trường và tìm kiếm các tài liệu chứng cứ để làm cơ sở giải quyết một cách hiệu quả nhất mang lại cho Việt Nam phần thắng trong trường hợp có thể đưa vụ kiện ra Tòa khi tranh chấp với những quốc gia không chấp nhận thông qua con đường ngoại giao.

Ngoài ra còn các tòa khác mà Việt Nam có thể tham gia để giải quyết tranh chấp tại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa:

Tòa án quốc tế về Luật biển (ITLOS): Theo điều 287 Công ước Luật biển 1982, quốc gia thành viên có thể đệ đơn trình vụ tranh chấp lên Tòa án Công lý quốc tế, Tòa án quốc tế về Luật biển hoặc tòa trọng tài. Không có quốc gia nào ở Biển Đông trong số 160 thành viên của Công ước đưa ra tuyên bố như vậy. Điều khó khăn trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại ITLOS: Trung Quốc đã tuyên bố loại trừ thẩm quyền giải quyết tranh chấp của ITLOS cũng như bất cứ thiết chế tài phán  nào theo điều 287 Công ước. Để thiết lập thẩm quyền của ITLOS với vụ việc không thể đạt được do các quốc gia có liên quan đều chưa chấp nhận thẩm quyền của Tòa. ITLOS cũng không tồn tại thẩm quyền linh hoạt như Forum prorogatum linh hoạt như ICJ nên khản năng giải quyết tranh chấp tại ITLOS rất khó. 

Tòa trọng tài theo Phục lục VII Công ước Luật biển 1982 là cơ quan triển vọng rất lớn cho vấn đề giải quyết tranh liên quan đến chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Trong khi ICJ, ITLOS, Việt Nam gặp khó khăn trong vấn đề thiết lập thẩm quyền của Tòa để giải quyết tranh chấp, thì Tòa trọng tài Phục lục VII vấn đề có thể được giải quyết thông qua việc chứng minh Việt Nam trong vấn đề áp dụng các quy định bắt buộc về tham vấn và hòa giải  theo quy định Công ước với Trung Quốc với các bên ( Malaysia, Philipines, Brunei) nhưng không đạt kết quả. Philipines đã khởi kiện Trung Quốc trước Tòa Phục lục VII, vì thế Việt Nam có thể tham gia vào vụ việc với tư cách đồng nguyên đơn, hoặc độc lập khởi kiện Trung Quốc. Sau vụ kiện của Philipines, việc sử dụng Tòa Phục lục VII của Việt Nam sẽ tác động rất lớn đến quan điểm, lập trường giải quyết tranh chấp của các quốc gia khu vực biển Đông. Việc Việt Nam sử dụng trọng tài Phục lục VII để giải quyết tranh chấp là một bước ngoặt lớn trực tiếp giải quyết các khía cạnh pháp lý liên quan đến chủ quyền hai hòn đảo.

Tòa Trọng tài thường trực Lahay (PCA): PCA là cơ quan thực hiện giải quyết nhiều tranh chấp liên quan đến vấn đề biển đảo. Việt Nam có thể lựa chọn PCA dể giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa, nhấn mạnh vấn đề xác định phương thức thụ đắc lãnh thổ hợp pháp mà các bên đã sử dụng để thiết lập chủ quyền. PCA có nhiều thủ tục tố tụng mà các bên có thể lựa chọn, Các bước thủ tụng khá là rõ ràng cụ thể hướng đến sự linh hoạt nhưng vẫn đảm bảo khuôn khổ chung nhất định các bên phải tuân theo. Mặt khác Việt Nam và các quốc gia bên yêu sách chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đều đã có trọng tài viên của quốc gia tại PCA. Chính vì thế đây là nhân tố thuận lợi thức đẩy các bên sử dụng Tòa trọng tài này.