1. Chức năng tư vấn của ICJ

Chức năng tư vấn pháp lý của Tòa án quốc tế có thể được IThiểu là việc Toà án đưa ra các ý kiến và câu trả lời đối với các câu hỏi pháp lý được đệ trình lên Tòa án. Về nguyên tắc, dù không có giá trị ràng buộc trong các ý kiến tư vấn của mình nhưng trên thực tế, tầm quan trọng của các ý kiến tư vấn của Tòa ICJ là điều không thể phủ nhận. Nếu khi Việt Nam không thể sử dụng chức năng giải quyết tranh chấp của Tòa ICJ thì Việt Nam có thể sử dụng chức năng tư vấn của Tòa. Thế nhưng việc xin tư vấn này cần phải có 2 điều kiện: Chủ thể xin ý kiến phải là chủ thể có quyền xin ý kiến và câu hỏi đó phải là câu hỏi pháp lý.

Sau khi nhận được hồ sơ đề nghị, Tòa sẽ lên danh sách những quốc gia và tổ chức quốc tế có thể cung cấp thêm thông tin cho vấn đề pháp lý mà Tòa được yêu cầu tư vấn. Như thường lệ, các tổ chức và quốc gia có quyền tham dự vào thủ tục tư vấn của vụ việc nhất định có thể đệ trình lập trường của mình bằng văn bản.

2. Thẩm quyền tư vấn của ICJ 

Đươc̣ quy đinh tại Điều 96 Hiến chương Liên Hợp Quốc. Theo Khoản 1 Điều 65 Quy chế Tòa ICJ quy đinh: Tòa án có thể có những kết luận tư vân về một vân đề pháp luật bât ki luc nào theo yêu câu của một cơ quan bât ki được chính Hiến chương Liên Hợp Quốc hoặc theo đung bản Quy chế này, cho toàn quyền được yêu câu tư vân.

Như vậy với Tòa công lý quốc tế, quyền yêu cầu tư vấn không dành cho các quốc gia, mà phải thông qua Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an hoặc các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc. Do đó Việt Nam cũng không trực tiếp sử dụng chức năng tư vấn với Tòa và chức năng tư vấn cũng không trực tiếpgiải quyết tranh chấp chủ quyền trên biển Đông.

3. Việt Nam có thể sử dụng trực tiếp chức năng tư vấn của ICJ hay không?

Theo quy chế, các quốc gia không được quyền yêu cầu trực tiếp tòa án cho ý kiến tư vấn về các tranh chấp của mình, do đó Việt Nam không thể sử dụng trực tiếp chức năng tư vấn của ICJ, bởi lẽ: Theo quy định tại Điều 96 Hiến chương LHQ, ICJ chỉ có thẩm quyền cho ý kiến tư vấn đối với các câu hỏi pháp lý của Đại hội đồng hoặc Hội đồng bảo an LHQ hoặc các câu hỏi pháp lý của các tổ chức chuyên môn khác của LHQ liên quan đến hoạt động của tổ chức này và trên cơ sở chấp thuận của Đại hội đồng. Theo quy định này, việc xin ý kiến tư vấn của ICJ về vấn đề liên quan đến phân định biển sẽ phải được đưa ra thảo luận và thông qua tại Đại hội đồng hoặc Hội đồng bảo an LHQ. Việt Nam cần hết sức cân nhắc đến khả năng vận động ĐHĐ thông qua Nghị quyết xin ý kiến tư vấn của Tòa ICJ. Việc Việt Nam có vận dụng thành công hay không cơ chế tư vấn của Tòa ICJ phụ thuộc vào hai yếu tố: 

(1) Các câu hỏi tư vấn dự kiến đưa ra trước Tòa cũng là một vấn đề đáng để lưu tâm nếu như tranh chấp Biển Đông có thể được Tòa viện dẫn để cho ý kiến. Các vấn đề được đưa ra để hỏi ý kiến tư vấn của Tòa phải là những vấn đề pháp lý (có thể là những vấn đề về quy chế pháp lý của các cấu trúc địa chất ở Biển Đông hay các vấn đề liên quan đến việc giải thích và áp dụng các điều khoản còn mập mờ của Công ước Luật biển năm 1982…). 

(2) Việc vận động các thành viên Đại hội đồng ủng hộ một nghị quyết về việc xin ý kiến tư vấn của ICJ trong vấn đề tranh chấp biển Đông là không dễ dàng, đòi hỏi các quốc gia đề xuất phải tìm cách gắn vấn đề này với lợi ích của phần lớn các nước thành viên Đại hội đồng LHQ. Vì vậy mà muốn giải quyết triệt để vấn đề này thì Việt Nam cần phải quyết liệt hơn nữa, tìm những biện pháp thúc đẩy các nước trong khu vực cũng như các cơ quan ngoại giao của Việt Nam tác động tới LHQ. Gợi mở đối với Việt Nam trong thời gian tới đó chính là cần tích cực tận dụng các thiết chế khu vực để tác động đến LHQ đặc biệt là các cơ quan chính có đại diện của Việt Nam. Bên cạnh các thiết chế khu vực, chúng ta cũng cần vận động hành lang nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các thiết chế quốc tế. Thêm vào đó, cần tích cực thông tin thêm cho các quốc gia khác cũng những các cơ quan chính của Liên Hợp Quốc về tình hình tại Biển Đông cũng như động thái của các quốc gia có liên quan trong tranh chấp.

Trong trường hợp đưa vấn đề này ra Hội đồng bảo an, việc thông qua nghị quyết về việc yêu cầu ICJ cho ý kiến tư vấn sẽ phải thực hiện theo quy định của Điều 27 Hiến chương LHQ. Theo đó, trước hết Hội đồng bảo an sẽ xem xét đây là “vấn đề thủ tục” hay là “vấn đề khác” theo quy định tại Điều 27. Việc đưa ra quyết định về vấn đề này sẽ được thông qua nếu không nước thành viên thường trực nào của Hội đồng bảo an sử dụng quyền phủ quyết. Trung Quốc là một Ủy viên thường trực của Hội đồng bảo an nên nhiều khả năng Trung Quốc sẽ sử dụng quyền phủ quyết đối với tất cả các đề xuất coi việc xin ý kiến tư vấn của ICJ về vấn đề phân định biển Đông là “vấn đề thủ tục”. Nếu vấn đề này được coi là “vấn đề khác”, việc bỏ phiếu sẽ tuân thủ quy định tại Điều 27 và nhiều khả năng Trung Quốc sẽ tiếp tục sử dụng quyền phủ quyết để không thông qua yêu cầu xin ý kiến tư vấn của ICJ. Do đó, việc xin ý kiến tư vấn của ICJ chỉ có thể đưa ra Đại hội đồng LHQ và phải được đa số các nước thành viên Đại hội đồng tham dự cuộc họp bỏ phiếu thông qua. Tuy nhiên, việc vận động các thành viên Đại hội đồng ủng hộ một nghị quyết về việc xin ý kiến tư vấn của ICJ trong vấn đề vấn đề này không dễ dàng, đòi hỏi các quốc gia đề xuất phải tìm cách gắn vấn đề này với lợi ích của phần lớn các nước thành viên Đại hội đồng LHQ.

4. Vậy Việt Nam cần chuẩn bị những gì để có thể sử dụng chức năng tư vấn của ICJ?

Việt Nam rất mong muốn giải quyết các tranh chấp tại khu vực Biển Đông một cách dứt điểm, tuy nhiên do nhiều yếu tố mà tranh chấp Biển Đông vẫn chưa thể được giải quyết một cách triệt để. Và cho dù rất muốn xin ý kiến tư vấn của Tòa ICJ nhưng cũng không thể thực hiện được vì các quốc gia không có quyền yêu cầu Tòa ICJ cho ý kiến tư vấn về vụ tranh chấp của mình theo cơ chế của Tòa. Như vậy, về phía Việt Nam, để có thể bảo đảm quyền cũng như lợi ích của mình liên quan đến các vấn đề liên quan đến tranh chấp trên biển Đông, đặc biệt là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như quá trình phân định biển chúng ta cần phải:

  • Thứ nhất, tích cực tận dụng các thiết chế khu vực để tác động đến Liên Hợp Quốc đặc biệt là các cơ quan chính có đại diện của Việt Nam như ASEAN, bằng việc kêu gọi các quốc gia có nhiều điểm tương đồng trong vấn đề pháp lý có thể hướng tới một lập trường chung về Biển Đông.
  • Thứ hai, bên cạnh các thiết chế khu vực, chúng ta cũng cần vận động hành lang nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các thiết chế quốc tế. Thêm vào đó, cần tích cực thông tin thêm cho các quốc gia khác cũng những các cơ quan chính của Liên Hợp Quốc về tình hình tại Biển Đông cũng như động thái của các quốc gia có liên quan trong tranh chấp, góp phần vào việc giúp Việt Nam từng bước đưa vấn đề Biển Đông vào các chương trình nghị sự chính của Liên Hợp Quốc. 
  • Thứ ba, cần tích cực tìm kiếm, thu thập thông tin về những yêu sách thực tiễn và các yêu sách phi lý về các quyền mà các quốc gia đang thực hiện trong đó nổi bật nhất chính là Trung Quốc với yêu sách “đường chín đoạn”, những hành động trái với pháp luật quốc tế mà các quốc gia đang tham gia tranh chấp vẫn luôn ngang nhiên thực hiện trên Biển Đông, các bài khoa học của các học giả trên thế giới, ý kiến của các chuyên gia trong và ngoài nước về vấn đề tranh chấp mà Việt Nam đã tập hợp qua cơ chế tham vấn hoặc tư vấn để hoàn thiện bản yêu sách bảo vệ của phía Việt Nam với các bằng chứng lịch sử, chứng cứ pháp lý, các kinh nghiệm đi trước của các quốc gia đã khởi kiện thành công như quá trình giải quyết tranh chấp chủ quyền đối với Pedra Branca và các đá giữa Singapore và Malaysia hay vụ phân định biển giữa Peru và Chile với điều kiện hoàn cảnh địa lý giống với khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc, trong Vịnh Thái Lan với Campuchia,…. 
  • Ngoài ra có thể lồng ghép các câu hỏi mang tính pháp lý và chính trị đưa vào trong các câu hỏi yêu cầu Tòa tư vấn, qua đó góp phần làm rõ hơn các yếu tố khác trong tranh chấp tại Biển Đông cũng như vấn đề phân định biển mà chúng ta đang trong quá trình đàm phán. Bởi lẽ, Tòa đã khẳng định trong nhiều vụ tư vấn, khía cạnh chính trị của câu hỏi không làm mất đi bản chất pháp lý, và Toà không quan tâm tới lý do của các chủ thể hỏi ý kiến tư vấn này hay vụ việc cụ thể nào.

5. Đánh giá việc sử dụng Toà án Công lý Quốc tế đối với việc tư vấn pháp lý của Việt Nam tại Biển Đông

Thứ nhất, gợi mở đối với Việt Nam trong thời gian tới đó chính là cần tích cực tận dụng các thiết chế khu vực để tác động đến Liên Hợp Quốc đặc biệt là các cơ quan chính có đại diện của Việt Nam. Bên cạnh các thiết chế khu vực, chúng ta cũng cần vận động hành lang nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các thiết chế quốc tế. Thêm vào đó, cần tích cực thông tin thêm cho các quốc gia khác cũng những các cơ quan chính của Liên Hợp Quốc về tình hình tại Biển Đông cũng như động thái của các quốc gia có liên quan trong tranh chấp. Điều này trước tiên sẽ góp phần vào việc từng bước đưa vấn đề Biển đông vào các chương trình nghị sự chính của Liên Hợp Quốc. Nếu làm được việc này, có thể nói, Việt Nam đã tiến thêm được một bước trong quá trình dung hòa lợi ích của các quốc gia trong tranh chấp tại Biển Đông; góp phần ổn định tình hình an ninh khu vực cũng như trên thế giới. Từ đó, các vấn đề pháp lý tranh chấp tại biển Đông có thể sẽ được Hội Đồng Bảo An và Đại hội đồng xin ý kiến tư vấn từ phía Toà án.

 Thứ hai, dù không có giá trị ràng buộc trong các ý kiến tư vấn của mình nhưng trên thực tế tầm quan trọng của các ý kiến tư vấn của Tòa ICJ là điều không thể phủ nhận. Nếu trong tương lai Toà án công lý quốc tế đưa ra ý kiến tư vấn về các tranh chấp pháp lý ở Biển Đông do Đại hội đồng hoặc Hội đồng Bảo an xin ý kiến thì Việt Nam nên xem xét để có cách thức tốt nhất bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của quốc gia.