1. Liên minh thuế quan
Thuế quan (Thuế xuất nhập khẩu hay thuế xuất-nhập khẩu, thuế ải) là tên gọi chung để gọi hai loại thuế trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Đó là thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu. Thuế nhập khẩu là thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu, còn thuế xuất khẩu là thuế đánh vào hàng hóa xuất khẩu. Hiện nay, thuế quan là một trong những công cụ bảo hộ thương mại được sử dụng rộng rãi nhất, bên cạnh hạn ngạch xuất nhập khẩu.
Liên minh thuế quan (Custom Union – CU) là hình thức liên kết kinh tế giữa các nước, trong đó áp dụng các biện pháp xoá bỏ thuế quan và những rào cản phi thuế quan đối với phần lớn hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ buôn bán giữa các nước thành viên, đồng thời thiết lập và áp dụng một biểu thuế quan chung của các nước thành viên với các nước khác.
=> Liên minh thuế quan là một hiệp định thương mại mà một nhóm các quốc gia áp dụng một biểu thuế quan chung cho phần còn lại của thế giới trong khi trao quyền tự do thương mại cho nhau.
Về bản chất của nó như sau:
– Liên minh thuế quan là một hình thức hội nhập kinh tế cung cấp một bước trung gian giữa khu vực thương mại tự do (cho phép thương mại tự do lẫn nhau nhưng thiếu một hệ thống thuế quan chung) và thị trường chung (ngoài thuế quan chung, còn cho phép di chuyển tự do các nguồn lực như vốn và lao động giữa các quốc gia thành viên).
– Một khu vực thương mại tự do (FTA) với thuế quan chung tạo thành một liên minh thuế quan.
2. Đặc trưng của liên minh thuế quan
Về đặc trưng của liên minh thuế quan như sau:
– Trong liên minh thuế quan các nước thành viên trở thành một thị trường hàng hóa, dịch vụ thống nhất với các nước ngoài khối và tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng với nhau.
– Tuy vậy, các nước tham gia vào khối liên kết bị mất quyền độc lập tự chủ trong quan hệ buôn bán với các nước ngoài khối liên kết bởi sự ràng buộc của biểu thuế quan và chính sách thuế quan chung.
– Trong thực tế đã có nhiều liên minh thuế quan ra đời như: Liên minh thuế quan giữa Bỉ và Lucxambua năm 1921, Hiệp định chung về Mậu dịch và Thuế quan GATT năm 1948, Liên hiệp hải quan các nước Trung Mỹ (ADEANPACT)
Như vậy, liên minh thuế quan có những ý nghĩa sau:
– Trong hầu hết các trường hợp, việc giảm thương mại này nhằm mục đích bảo vệ một số nhà sản xuất nhất định trong nước, đồng thời làm tăng chi phí cho người tiêu dùng ở cả nước nhập khẩu và xuất khẩu.
– Nhiều Chính phủ cố gắng giải quyết vấn đề này bằng cách bảo vệ các nhà sản xuất được ưa chuộng đồng thời giảm chi phí tiêu dùng. Liên minh thuế quan, cùng với các hình thức hội nhập kinh tế khác đưa ra một phương tiện để đạt được sự cân bằng đó.
3. Khu vực thương mại tự do
Thương mại tự do là một chính sách chủ yếu mang tính lý thuyết, theo đó các chính phủ hoàn toàn không áp đặt thuế quan, thuế quan đối với hàng nhập khẩu hoặc hạn ngạch đối với hàng xuất khẩu. Theo nghĩa này, thương mại tự do đối lập với chủ nghĩa bảo hộ , một chính sách thương mại phòng thủ nhằm loại bỏ khả năng cạnh tranh với nước ngoài.
Tuy nhiên, trên thực tế, các chính phủ có chính sách thương mại tự do nói chung vẫn áp đặt một số biện pháp để kiểm soát xuất nhập khẩu. Giống như Hoa Kỳ, hầu hết các quốc gia công nghiệp phát triển đàm phán “ các hiệp định thương mại tự do ” hoặc các FTA với các quốc gia khác để xác định mức thuế quan, thuế quan và trợ cấp mà các quốc gia có thể áp dụng đối với hàng hóa xuất nhập khẩu của họ. Ví dụ, Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA), giữa Hoa Kỳ, Canada và Mexico là một trong những FTA nổi tiếng nhất. Hiện nay đã phổ biến trong thương mại quốc tế, FTA hiếm khi dẫn đến thương mại tự do thuần túy, không hạn chế.
Từ thời Hy Lạp cổ đại, các nhà kinh tế đã nghiên cứu và tranh luận về các lý thuyết và tác dụng của chính sách thương mại quốc tế. Các hạn chế thương mại có giúp ích hay làm tổn thương các quốc gia áp đặt chúng không? Và chính sách thương mại nào, từ chủ nghĩa bảo hộ nghiêm ngặt đến thương mại hoàn toàn tự do là tốt nhất cho một quốc gia nhất định? Qua nhiều năm tranh luận về lợi ích so với chi phí của các chính sách thương mại tự do đối với các ngành sản xuất trong nước, hai lý thuyết chủ yếu về thương mại tự do đã xuất hiện: chủ nghĩa trọng thương và lợi thế so sánh.
Ví dụ: Chủ nghĩa trọng thương là lý thuyết về tối đa hóa doanh thu thông qua xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Mục tiêu của chủ nghĩa trọng thương là sự cân bằng thương mại thuận lợi , trong đó giá trị hàng hóa mà một quốc gia xuất khẩu vượt quá giá trị hàng hóa mà quốc gia đó nhập khẩu. Thuế quan cao đối với hàng hóa sản xuất nhập khẩu là đặc điểm chung của chính sách trọng thương. Những người ủng hộ cho rằng chính sách trọng thương giúp các chính phủ tránh thâm hụt thương mại, trong đó chi tiêu cho nhập khẩu vượt quá thu nhập từ xuất khẩu. Ví dụ, Hoa Kỳ, do xóa bỏ các chính sách trọng thương trong thời gian qua, nên đã bị thâm hụt thương mại kể từ năm 1975.
Thống trị ở châu Âu từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, chủ nghĩa trọng thương thường dẫn đến việc mở rộng thuộc địa và chiến tranh. Kết quả là, nó nhanh chóng giảm phổ biến. Ngày nay, khi các tổ chức đa quốc gia như WTO nỗ lực giảm thuế quan trên toàn cầu, các hiệp định thương mại tự do và các hạn chế thương mại phi thuế quan đang thay thế lý thuyết trọng thương.
=> Khu vực thương mại tự do (free trade area) là hình thức hòa nhập thương mại giữa nhiều nước, trong đó các thành viên dỡ bỏ hết các hàng rào thương mại (thuế quan, hạn ngạch v.v…) giữa họ với nhau, nhưng tất cả các nước đều tiếp tục duy trì hàng rào thương mại với các nước khác. Mục đích của khu vực thương mại tự do là tận dụng những mối lợi từ chuyên môn hóa quốc tế, qua đó cải thiện mức sống thực tế của các nước thành viên.
4. Quy tắc xuất xứ
Trong thương mại quốc tế quy tắc xuất xứ được sử dụng để xác định quốc gia xuất xứ của một sản phẩm hàng hóa. Có hai loại quy tắc xuất xứ phổ biến phụ thuộc vào cách áp dụng, là các quy tắc ưu đãi và không ưu đãi về xuất xứ (19 CFR 102). Các quy tắc chính xác thực thi thì khác nhau tùy theo các thỏa thuận giữa các quốc gia.
Theo đó:
– Ưu đãi về quy tắc xuất xứ là một phần của một khu vực mậu dịch tự do hoặc một thỏa thuận thương mại ưu đãi bao gồm các nhượng bộ về thuế quan. Những thoả thuận thương mại này có thể là các hiệp định thương mại đơn phương, song phương hoặc khu vực (đôi khi còn gọi là đa phương). Các quy tắc xuất xứ xác định những sản phẩm nào có thể hưởng lợi từ ưu đãi thuế quan hoặc ưu đãi, nhằm tránh chuyển tải hàng hóa (Transshipment).
– Các quy tắc xuất xứ không ưu đãi được sử dụng để xác định nước xuất xứ cho một số mục đích nhất định. Những mục đích này có thể là hạn ngạch, chống bán phá giá, chống gian lận, thống kê hoặc ghi nhãn nguồn gốc. Cơ sở cho các quy tắc không ưu đãi bắt nguồn từ Công ước Kyoto quy định rằng nếu một sản phẩm được thu hoạch toàn bộ hoặc sản xuất hoàn toàn trong phạm vi một quốc gia, sản phẩm sẽ được coi là có nguồn gốc ở nước đó. Đối với sản phẩm đã được sản xuất ở nhiều nước, sản phẩm sẽ được xác định có nguồn gốc ở nước mà đã có sự chuyển đổi cơ bản cuối cùng.
5. Khác biệt giữa liên minh thuế quan và khu vực thương mại tự do về vấn đề quy tắc xuất xứ
Sự cần thiết có các quy tắc riêng về xuất xứ có thể được lý giải như sau: Trong một liên minh thuế quan, các nước thành viên nhất trí áp dụng một biêu thuế quan đối ngoại chung và cho phép việc lưu thông tự do các sản phẩm giữa các nước trong liên minh miễn thuế quan và không có hạn chế số lượng. Lưu thông tự do được phép đối với tất cả các sản phẩm được sản xuất trong phạm vi liên minh thuế quan này, hoặc nếu là hàng nhập khẩu, thì đối với các mặt hàng đã nộp thuế nhập khẩu theo biểu thuế quan đối ngoại chung. Liên minh Châu Âu (EU) là một ví dụ điển hình về liên minh hải quan đang trong giai đoạn hoàn thiện của mình.
Trong một liên minh thuế quan, công nghiệp trong nước được bảo hộ bởi hàng rào thuế quan đối ngoại chung. Do vậy, buôn bán giữa các nước thành viên trong liên minh có thể được xem như là buôn bán trong nước vói điều kiện là các sản phẩm đã được thông quan một cách phù họp để lưu thông tự do. Chính vì vậy, không cần sử dụng các quy tắc riêng về xuất xứ đối với hoạt động buôn bán trong phạm vi một liên minh thuế quan.
Tuy nhiên, trong một khu vực thương mại tự do thường không có một biểu thuế quan chung đối ngoại. Các nước tham gia khu vực thương mại tự do này đã nhất trí cho nhau hưởng quy chế ưu đãi ve thuế, đồng thời vẫn duy trì chính sách thương mại và thuế quan của mình đối với các nước ngoài khu vực. Đe thực hiện được một khu vực thương mại tự do, thì ưu đãi thương mại phải đạt hai điều kiện chủ yếu sau:
Chỉ có các sản phẩm được xem là có xuất xứ trong khu vực mới có thể hưởng lọi từ quy chế ưu đãi đã được thỏa thuận giữa các Bên Ký Kết.
Cần có một bằng chứng cụ thể về xuất xứ để chứng minh nguồn gốc xuất xứ của các sản phẩm đó.
Hiệp hội Thương mại Tự do Châu Âu (EFTA) là một ví dụ điển hình về khu vực thương mại tự do. Các ví dụ khác là các khu vực thương mại tự do được thành lập giữa một bên là câc nước thành viên EFTA và một bên là Bulgaria, CH Czech, Estonia, Hungary, Latvia, Lithuania, Balan, Rumani, Slovakia và Slovenia. Những ví dụ khác thì tương ứng vói những “Hiệp định Châu Âu” giữa EU và câc nước nói trên.
Các quy tắc xuất xứ được áp dụng trong một khu vực thương mại tự do là cần thiết để ngăn chặn mọi sai lệch buôn bán bên trong khu vực có thể xảy ra vì thuế nhập khẩu đối với một mặt hàng cụ thể ở một nước thành viên có thể khác với thuế nhập khẩu đối vói cùng mặt hàng đó tại nước thành viên khác.
Ví dụ, một sản phẩm nhập vào một trong các Bên Ký Kết (nước A) từ ngoài một khu vực thương mại tự do có thể phải chịu mức thuế nhập khẩu là 5% theo giá trị, trong khi thuế nhập khẩu cùng sản phẩm này ở Bên Ký Kết khác (nước B) là 15% theo giá trị. Bảo hộ công nghiệp ở nước B sẽ yếu đi nếu sản phẩm đó được tải xuất (không có gia công thêm) từ nước A sang nước B theo hiệp định thương mại tự do ký giữa hai bên.
Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng!
Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).