Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan đối với các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tính thống nhất của quyền lực nhà nước được thể hiện ở ở mục tiêu chung là phục vụ lợi ích của nhân dân, của quốc gia và dân tộc. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân phải được thực hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, dân chủ phải đi đôi với kỷ cương trật tự, được thể chế hoá thành pháp luật và trong khuôn khổ của pháp luật.
1. Khái niệm dân chủ
Dân chủ là một khái niệm nói về một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực thông qua một hệ thống bầu cử theo lối phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Hay nói cách khác, dân chủ là một phương thức quan hệ, phương thức sử dụng quyền lực trong nội bộ của các quốc gia. Về bản chất, dân chủ là sự xác lập những quyền cơ bản của công dân. Đó là phương thức để mọi công dân có khả năng thiết lập trật tự đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở đất nước mình; trong đó có việc cộng đồng các cá nhân cấu tạo nên quyền lực chính trị của mình.
Ở Việt Nam hiện nay, Quốc hội và HÐND các cấp là hình thức chủ yếu của chế độ dân chủ đại diện (Điều 83 và 119 Hiến pháp năm 1992 của Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Đó là hình thức dân chủ chung nhất, nếu xét từ góc độ cơ chế tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân là chế độ, mà ở đó, việc ra những quyết định chủ yếu thuộc thẩm quyền của hội nghị những người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân ủy thác bằng phiếu bầu (các đại biểu Quốc hội, đại biểu HÐND ).
>> Luật sư tư vấn luật đầu tư nước ngoài trực tuyến gọi:1900.0191
2. Thực hành dân chủ trong hoạt động của Quốc hội, HÐND
Như chúng ta đã biết, chỉ vài tháng sau cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, toàn thể nhân dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên (không phân biệt nam nữ, tôn giáo, dân tộc) có quyền bầu cử và từ 21 tuổi trở lên có quyền ứng cử vào cơ quan quyền lực nhà nước. Nền dân chủ lúc đó mặc dù rất non trẻ, nhưng đã đạt đến những tiêu chí của các nền dân chủ tiên tiến đương thời (như bình đẳng giới, phổ thông đầu phiếu…). Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I đã thể hiện ý chí, quyết tâm và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng chính quyền của nhân dân, đồng thời phản ánh sự tin tưởng sâu sắc của Đảng đối với quần chúng cách mạng. Như vậy, tính dân chủ trong Quốc hội đã được thể hiện rất rõ ràng ngay từ khi Quốc hội khóa đầu tiên được bầu. Qua quá trình phát triển, tính dân chủ trong hoạt động của cơ quan dân cử (Quốc hội, HÐND các cấp) đã được duy trì và ngày càng được củng cố, phát triển.
Kế thừa các bản Hiến pháp trước đây, Điều 6, Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001 chỉ rõ: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và HÐND là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Quốc hội, HÐND và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Điều 4, Luật Tổ chức Quốc hội quy định “Quốc hội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số”. Điều 3, Luật Tổ chức HÐND và Ủy ban nhân dân cũng quy định “HÐND và Ủy ban nhân dân tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Qua thực tiễn hoạt động của Quốc hội và HÐND cho thấy, việc thực hành dân chủ đã được thể hiện ở các nội dung chủ yếu sau:
Một là, sinh hoạt của Quốc hội, HÐND tại các kỳ họp đã giảm bớt tính hình thức và ngày càng dân chủ hơn
Theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức HÐND và Ủy ban nhân dân, thì kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu của Quốc hội và HÐND. Xuất phát từ đặc điểm đó, trong các hoạt động của mình, Quốc hội và HÐND đã tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số. Tại các kỳ họp, Quốc hội và HÐND đã tập trung giải quyết những vấn đề quan trọng của đất nước, của địa phương.
Trong các nhiệm kỳ gần đây, công tác chuẩn bị, quy trình tiến hành và công tác điều hành kỳ họp Quốc hội, HÐND đã có bước cải tiến. Nguyên tắc tập thể thảo luận và quyết định theo đa số đã bảo đảm phát huy trí tuệ của các đại biểu, huy động sự đóng góp của các cơ quan hữu quan, của đông đảo cán bộ tham mưu, nghiên cứu và cán bộ phục vụ. Tại các kỳ họp Quốc hội, kỳ họp HÐND, không khí thảo luận của các đại biểu đã thực sự sôi nổi, thu hút được sự chú ý của dư luận trong nhân dân. Những vấn đề được đưa ra thảo luận, xem xét và quyết định tại kỳ họp đã được lựa chọn trong chương trình nghị sự. Việc chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp đã thực sự trở thành hình thức giám sát cơ bản của Quốc hội và HÐND đối với các cơ quan nhà nước hữu quan. Chính những đổi mới đó đã từng bước xác lập nên lề lối, tác phong làm việc dân chủ trong Quốc hội và HÐND, tạo nên sự tin cậy trong nhân dân, được nhân dân đồng tình và hoan nghênh.
Hai là, hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội; hoạt động ban hành nghị quyết của HÐND được thực hiện theo một quy trình dân chủ, từng bước đáp ứng được những đòi hỏi mà cuộc sống đang đặt ra
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, HÐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương có quyền ban hành nghị quyết để quyết định chủ trương, chính sách, biện pháp thuộc các lĩnh vực quan trọng ở địa phương.
Hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội và việc xây dựng, ban hành nghị quyết của HÐND các cấp thời gian qua được Quốc hội và HÐND các cấp đặc biệt quan tâm, chú trọng. Trong quá trình thực hiện chức năng này, Quốc hội và HÐND luôn quan tâm đến việc phát huy tính dân chủ trong việc đóng góp ý kiến, tiếp thu, chỉnh lý và thông qua các văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm chất lượng, có tính thực tiễn cao. Việc thực hành dân chủ trong quá trình xây dựng luật, nghị quyết ở Quốc hội và HÐND được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, dân chủ trong việc Quốc hội, HÐND thảo luận, đóng góp ý kiến cho các dự án luật, nghị quyết. Trong quá trình này, mỗi đại biểu Quốc hội và đại biểu HÐND đều độc lập trong việc tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến, đề xuất phương án chỉnh lý dự thảo và bấm nút (hoặc giơ tay) biểu quyết theo quan điểm của từng đại biểu.
Thứ hai, tổ chức lấy ý kiến nhân dân, các đối tượng chịu sự tác động của dự án luật, nghị quyết hoặc các văn bản có nội dung quan trọng và có phạm vi điều chỉnh rộng (Khoản 2, Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và khoản 3, Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HÐND và Ủy ban nhân dân).
Trong những năm gần đây, việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp về các dự án luật tiếp tục được Quốc hội chú trọng và có đổi mới cả về hình thức, phương pháp và nội dung. Số lượng các dự án luật đưa ra lấy ý kiến nhân dân không ngừng tăng lên, hình thức ngày càng đa dạng, phong phú, trong đó có việc phát huy và sử dụng thế mạnh của công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thông.
Tuy nhiên, hiện nay, quy định về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân còn chưa cụ thể. Ngoài quy định chung tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HÐND và Ủy ban nhân dân hầu như chưa có một văn bản nào quy định rõ quy trình, cách thức tiến hành việc lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp vào các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết nên việc tổ chức thực hiện lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp về các dự án này còn lúng túng, bị động.
Ba là, trong việc thực hiện chức năng giám sát, Quốc hội và HÐND đã bám sát vào những vấn đề bức xúc của xã hội, được dư luận quan tâm
Điều 1, Luật Tổ chức Quốc hội quy định “…Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”. Điều 1, Luật Tổ chức HÐND và Ủy ban nhân dân quy định “…HÐND thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực HÐND, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của HÐND; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương”.
Hoạt động giám sát của Quốc hội và HÐND các cấp là hoạt động mang tính quyền lực, có nguồn gốc từ tính chất đại diện cho ý chí, quyền làm chủ của nhân dân, thể hiện quyền lực nhân dân. Nó không giống với hoạt động kiểm tra, kiểm sát của các cơ quan Nhà nước khác là hoạt động mang tính chất tố tụng, hành chính nhà nước và trong nhiều trường hợp, chỉ mang tính nội bộ thuộc hệ thống.
Với tư cách là những cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, thời gian qua, Quốc hội và HÐND không ngừng phát huy dân chủ trong hoạt động giám sát. Như chúng ta đã biết, tại các kỳ họp Quốc hội và HÐND, hoạt động giám sát tập trung vào các công việc chính là xem xét các báo cáo; giám sát chuyên đề; chất vấn và trả lời chất vấn; bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, HÐND bầu ra; giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội, HÐND, hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân chủ yếu được tiến hành thông qua hoạt động của các cơ quan trực thuộc Quốc hội và HÐND.
Trong hầu hết các phương thức thực hiện quyền giám sát trên đây, các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân đều đề cao trách nhiệm của mình. Với tư cách là người đại diện cho nhân dân, các đại biểu đã phát huy tối đa năng lực, tâm huyết của mình để thực hiện tốt quyền giám sát được nhân dân ủy thác.
Tuy đã đạt được những kết quả trong thời gian qua, song có thể thấy rằng, hoạt động giám sát của Quốc hội và HÐND hiện nay còn có một số vướng mắc nhất định, đang làm hạn chế hiệu lực và hiệu quả của hoạt động này. Đó là, chưa có cơ chế thích hợp để Quốc hội, HÐND thực hiện tốt quyền giám sát; các hình thức giám sát lâu nay như nghe báo cáo, chất vấn và trả lời chất vấn dường như đang đặt Quốc hội, HÐND vào tính huống việc đã rồi. Do đó, hoạt động giám sát vẫn còn chưa thực sự phát huy tác dụng, chưa có tính đột phá và vẫn còn mang nặng tính hình thức. Cơ chế để nhân dân trực tiếp tham gia vào quá trình giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước chưa được quan tâm hoàn thiện và thiếu tính thực tế. Đây là những hạn chế cần được khắc phục trong thời gian tới để đẩy mạnh và phát huy vai trò của nhân dân đối với hoạt động giám sát của Quốc hội và HÐND, là điều kiện để tăng cường chất lượng và hiệu quả giám sát của Quốc hội, HÐND.
Bốn là, Quốc hội ngày càng thực hiện tốt chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; HÐND thực hiện ngày càng có hiệu quả việc quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương
Nền dân chủ nhà nước ta là nền dân chủ mà ở đó, người dân có quyền tham gia vào việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, có quyền tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước.
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì có 4 nhóm vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội đó là: i) Tổ chức bộ máy nhà nước, nhân sự cấp cao trong bộ máy nhà nước, phân định địa giới hành chính; ii) Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, các công trình quan trọng quốc gia; iii) Những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc lĩnh vực tài chính, ngân sách và tiền tệ; iv) Những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tôn giáo, dân tộc.
Thời gian qua, việc xem xét, quyết định của Quốc hội liên quan đến 4 nhóm vấn đề này đã có nhiều tiến bộ, ngày càng thực chất, dân chủ hơn, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực hoạt động của Quốc hội. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng, hiệu quả và bảo đảm thực quyền của Quốc hội trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước trong thời gian tới, yêu cầu đặt ra là cần tiếp tục nâng cao chất lượng các quyết định của Quốc hội theo hướng thực chất hơn, hiệu lực và hiệu quả cao hơn, bảo đảm quy trình dân chủ, công khai hơn.
Đối với HÐND, để thực hiện chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, tại kỳ họp các đại biểu đã thảo luận, xem xét và quyết định những vấn đề phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh và những vấn đề quan trọng khác như: điều chỉnh, bổ sung số liệu một số chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế xã hội hàng năm, tình hình kinh tế – xã hội, thu chi ngân sách 6 tháng đầu năm, nhiệm vụ giải pháp chỉ đạo thực hiện 6 tháng cuối năm. Các kỳ họp chuyên đề đã được tổ chức với các nội dung đa dạng, phong phú, trong đó tập trung vào các một số vấn đề như bổ sung, điểu chỉnh các loại phí, quy định chế độ chính sách đối với một số đối tượng cụ thể, định mức chi tiêu tài chính phục vụ hoạt động của HÐND các cấp.
Để nâng cao chất lượng việc quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương, Thường trực HÐND một số địa phương đã chú trọng việc chỉ đạo tăng cường khảo sát thực tế, nâng cao chất lượng công tác thẩm định, thẩm tra, tiếp tục đổi mới và mở rộng hình thức và đối tượng lấy ý kiến cử tri tham gia vào nội dung kỳ họp. Thời gian dành cho việc thảo luận thông qua các Nghị quyết về những vấn đề quan trọng được Hội đồng nhân dân nhiều địa phương chú trọng. Tuy nhiên, có HÐND địa phương trong phiên họp thảo luận tại Hội trường, còn chưa phát huy hết tính đa dạng phong phú của các đại biểu mà chủ yếu tập trung vào các đại biểu đại diện cho lãnh đạo các sở, ban, ngành phát biểu, mà nội dung là “báo cáo thành tích” của ngành mình, điều đó không phù hợp với bản chất của một phiên họp thảo luận chung.
3. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo đảm thực hành dân chủ trong hoạt động của Quốc hội và HÐND
Một là, tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Quốc hội trong việc thực hiện chức năng lập pháp; đổi mới hoạt động ban hành nghị quyết của HÐND
Thực tiễn công cuộc đổi mới của đất nước ta đã và đang đặt ra các yêu cầu cần đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội và hoạt động ban hành nghị quyết của HÐND. Cụ thể là:
– Yêu cầu cần có đủ các đạo luật để điều chỉnh kịp thời các quan hệ kinh tế – xã hội, đặc biệt là các quan hệ kinh tế đối ngoại đang ngày càng phát triển không ngừng trên phạm vi cả nước và ở từng địa phương.
– Yêu cầu cần có các đạo luật về tổ chức nhà nước, bảo đảm thực hiện xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước. Nội dung đổi mới bao gồm từ việc đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, cải cách nền hành chính quốc gia, cải cách tư pháp, đổi mới mô hình, cơ cấu tổ chức và hoạt động của HÐND theo hướng tiếp tục củng cố và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
– Yêu cầu dân chủ hoá đời sống xã hội bảo đảm thực hiện các quyền dân chủ của nhân dân cũng đang đòi hỏi phải đổi mới hệ thống pháp luật cho phù hợp. Hệ thống pháp luật đó phải trở thành công cụ, phương tiện hữu hiệu để nhân dân sử dụng, nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình.
– Yêu cầu nâng cao chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật đòi hỏi hoạt động lập pháp của Quốc hội và hoạt động ban hành nghị quyết của HÐND phải xác định những vấn đề cụ thể nhất mà văn bản pháp luật cần quy định.
– Yêu cầu thể chế kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng bằng các đạo luật của Quốc hội và các nghị quyết của HÐND. Đảng lãnh đạo để Quốc hội, Hội đồng nhân dân thể chế hoá đầy đủ và kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng thành các quy định của pháp luật, đưa các chủ trương, đường lối đó vào cuộc sống và bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp của Nhà nước.
Những yêu cầu đó đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục đổi mới phương thức thực hiện chức năng lập pháp của Quốc hội và hoạt động ban hành nghị quyết của HÐND. Để thực hiện được điều đó, cần nghiên cứu, đổi mới các quy trình sau đây:
Thứ nhất: Phân định rạch ròi phạm vi thẩm quyền lập pháp của Quốc hội và phạm vi thẩm quyền trong hoạt động ban hành nghị quyết của HÐND. Xác định có tính nguyên tắc những vấn đề nhất thiết phải được Quốc hội ban hành bằng luật, còn đối với pháp lệnh là hình thức văn bản của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì chỉ quy định những vấn đề được Quốc hội giao; những vấn đề nhất thiết phải được ban hành văn bản bằng nghị quyết của HÐND.
Thứ hai: Về thủ tục, trình tự của quy trình chuẩn bị và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Pháp luật chỉ có thể được thay đổi với quy trình được thiết lập minh bạch, rõ ràng và gần gũi với tất cả mọi người. Vì vậy, cần thực hiện tốt các khâu từ việc soạn thảo và thẩm tra; tổ chức lấy ý kiến các ngành, các cấp và ý kiến của nhân dân đối với các dự án luật, pháp lệnh của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và dự thảo các nghị quyết của HÐND; cải tiến công tác chuẩn bị, thảo luận, quyết định thông qua các dự án luật tại kỳ họp Quốc hội, các dự thảo nghị quyết của HÐND; bảo đảm các điều kiện cần thiết để văn bản pháp luật ban hành sớm đi vào cuộc sống.
Hai là, đổi mới phương thức hoạt động của Quốc hội trong việc thực hiện chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước; đổi mới phương thức thực hiện quyền giám sát của HÐND đối với các cơ quan nhà nước ở địa phương
Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã chủ trương: “Nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội và HÐND. Xác định rõ phạm vi, nội dung, cơ chế giám sát của Quốc hội, các Uỷ ban của Quốc hội”. Để làm tốt điều này cần tiến hành một số các công việc sau đây:
– Cần xác định rõ hơn phạm vi (tầng, nấc), nội dung, cơ chế thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội, của Uỷ ban thường vụ và các Uỷ ban của Quốc hội cũng như thẩm quyền trong hoạt động giám sát của HÐND ở các địa phương.
– Phân định rõ tính chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và sự khác nhau giữa hoạt động giám sát của hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước nói chung và quyền giám sát tối cao của Quốc hội nói riêng với hoạt động kiểm tra, thanh tra của hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước và hoạt động kiểm sát của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân. Các hoạt động này hiện nay còn trùng lặp, chưa phân định rõ, nên khó tránh khỏi tình trạng kém hiệu lực, hiệu quả hoạt động.
– Đổi mới hoạt động giám sát của Quốc hội, của HÐND phải được đặt trong quá trình đổi mới toàn diện và sâu sắc các mặt về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, của HÐND, đặc biệt phải gắn liền với đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội và hoạt động ban hành nghị quyết của HÐND. Cơ chế giám sát của Quốc hội và HÐND cần được đổi mới toàn diện.
Ba là, đổi mới phương thức hoạt động của Quốc hội trong việc thực hiện chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; phương thức hoạt động của HÐND trong việc quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương
Để Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, HÐND quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương thực sự có hiệu quả, cần cung cấp đầy đủ thông tin, gửi sớm tài liệu, tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội, đại biểu HÐND nghiên cứu khi xem xét, quyết định việc thu, chi ngân sách, phân bổ ngân sách; xem xét thường xuyên và quyết định kịp thời các công trình quan trọng theo thẩm quyền quy định.
Tình hình thiếu thông tin và công tác thống kê, kiểm tra, kiểm toán, đội ngũ chuyên gia giỏi chưa được tăng cường đủ mạnh… đã ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả thực hiện chức năng của Quốc hội và HÐND. Để khắc phục tình trạng đó, cần có cơ chế cung cấp thông tin cho mỗi đại biểu Quốc hội và đại biểu HÐND. Cần có quy định về chế tài xử lý của đại biểu Quốc hội, đại biểu HÐND trong trường hợp các cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện trách nhiệm đó.
Mặt khác, cần nghiên cứu để có một mạng lưới cộng tác viên của đại biểu Quốc hội, đại biểu HÐND dưới dạng hợp đồng theo công việc. Theo đó, khi đại biểu Quốc hội, đại biểu HÐND thực hiện nhiệm vụ của mình trong một lĩnh vực chuyên ngành nào đó, mà cần đến những chuyên gia có am hiểu sâu sắc về lĩnh vực liên quan, thì đại biểu Quốc hội, đại biểu HÐND có quyền trưng tập hoặc thuê những người này giúp đại biểu trong thời gian làm nhiệm vụ (có thể là hoạt động lập pháp hoặc hoạt động giám sát).
Cần khôi phục quy định trong thời gian Quốc hội không họp thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc miễn nhiệm, cách chức các thành viên Chính phủ, nhưng phải được Chủ tịch nước nhất trí và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Sự phối hợp này là cần thiết, thể hiện sự gắn bó giữa Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Bốn là, đổi mới kỳ họp của Quốc hội và HÐND
Nâng cao chất lượng và hiệu quả các kỳ họp Quốc hội và HÐND cần tiến hành một số giải pháp cụ thể là: i) Đổi mới việc chuẩn bị nội dung, chương trình kỳ họp Quốc hội theo hướng tăng thêm thời gian gửi các dự án, đề án, báo cáo dự kiến trình ra kỳ họp Quốc hội; ii) Đổi mới quy trình thảo luận và thông qua các dự án, đề án, báo cáo tại kỳ họp theo hướng định rõ 3 bước: xem xét và biểu quyết để thống nhất những vấn đề chung đã được đề cập trong các dự án, đề án, báo cáo; lần lượt thảo luận kỹ từng vấn đề sau khi đã biểu quyết, thông qua việc điều chỉnh, bổ sung và đã được cho ý kiến ở bước một; sau khi đã trải qua quá trình xem xét vừa tổng thể, vừa toàn diện ở bước một và bước hai, biểu quyết thông qua toàn văn văn bản.
Năm là, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội và HÐND
Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định để Quốc hội, HÐND hoàn thành xuất sắc các chức năng, nhiệm vụ của mình. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, HÐND là nhằm bảo đảm cho Quốc hội, HÐND hoạt động đúng định hướng, phù hợp với lợi ích của dân tộc và của giai cấp, tạo điều kiện để kiện toàn và củng cố hệ thống chính trị, củng cố và tăng cường Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, giữ vững bản chất Nhà nước của ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Toàn bộ hoạt động của Quốc hội và HÐND thời gian qua là tiếp tục thể chế hóa đường lối đổi mới của Đảng, thể chế hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng. Tăng cường sự lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội và HÐND cũng là một quá trình phát triển tư duy, phát triển nhận thức và phù hợp với thực tiễn của cách mạng nước ta. Tăng cường vai trò của Quốc hội, HÐND trong bộ máy nhà nước và trong hệ thống chính trị cũng chính là điều kiện để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội và HÐND, làm cho bộ máy chính quyền các cấp từ trung ương đến cơ sở hoạt động có hiệu quả, hiệu lực hơn, thông qua đó, uy tín và vai trò của Đảng ngày càng cao.
Đảng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo Quốc hội và HÐND bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết, quyết định, nguyên tắc giải quyết những vấn đề trọng đại về quốc kế dân sinh và những vấn đề quan trọng ở địa phương; lãnh đạo thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, quan điểm, chủ trương, nghị quyết của Đảng; xây dựng Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; bố trí đúng đội ngũ cán bộ cầm quyền ngang tầm nhiệm vụ. Đảng không buông lỏng lãnh đạo nhưng cũng không bao biện, làm thay Quốc hội và HÐND. Trái lại, Quốc hội và HÐND càng phải phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo với tinh thần trách nhiệm cao trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Đây cũng chính là điều kiện để Quốc hội và HÐND ngày càng phát huy vai trò là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân.
(Bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 167-thang-3-2010 ngày 20/03/2010)
TS Đinh Xuân Thảo – Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp
(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)