1. Trọng tài thương mại quốc tế là gì?
Trọng tài thương mại quốc tế là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ Tư pháp quốc tế, nhất là các quan hệ thương mại quốc tế mà pháp luật cho phép giải quyết được bằng trọng tài. Theo phương thức này, các bên nhất trí thỏa thuận với nhau là sẽ đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại một cơ quan trọng tài nhất định nào đó.
Trọng tài không có thẩm quyền đương nhiên mà chỉ được giải quyết tranh chấp khi các bên có quyền và nghĩa vụ liên quan thởa thuận chỉ định. Khi các bên thiết lập một thởa thuận trọng tài thì nghĩa là họ đã trao thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho trọng tài và tòa án không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó trừ khi thởa thuận trọng tài vô hiệu hoặc bị hủy bở bởi chính các bên. Như vậy, thẩm quyền của trọng tài được xác lập trên cơ sở thởa thuận trọng tài.
Luật Mẫu UNCITRAL về Trọng tài thương mại quốc tế năm 1985 định nghĩa thỏa thuận trọng tài tại Khoản 1, Điều 7 như sau: “1. Thởa thuận trọng tài” là thởa thuận mà các bên đưa ra trọng tài mọi hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên về quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng. Thoả thuận trọng tài có thể dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thoả thuận riêng”.
Từ quy định trên, có thể thấy thởa thuận trọng tài là sự thống nhất ý chí của các bên về việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng bằng phương thức trọng tài. Thởa thuận này có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp và có thể dưới hình thức một điều khoản trong hợp đồng hoặc một thởa thuận trọng tài riêng biệt.
Hay Công ước châu Âu về Trọng tài thương mại quốc tế năm 1961 có đưa ra định nghĩa tương tự: “Thỏa thuận trọng tài là một điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc thỏa thuận trọng tài, hợp đồng hoặc thoả thuận trọng tài được ký kết giữa các bên, hoặc được trao đổi qua thư từ, điện tín, hoặc các hình thức liên lạc bằng điện toán khác, và trong mối quan hệ giữa các quốc gia mà pháp luật không yêu cầu rằng một thoả thuận trọng tài phải được lập thành văn bản, bất kỳ thởa thuận trọng tài nào cũng phải được ký kết theo đúng hình thức mà luật các nước này quy định”
Căn cứ tại Khoản 2 điều 3 Luật trọng tài thương mại Việt Nam quy định như sau
“2. Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh.”
Đây là một định nghĩa tương đối đơn giản, khái quát, từ đây có thể hiểu đơn giản : thởa thuận trọng tài là sự thởa thuận của các bên về một phương thức giải quyết các tranh chấp, có thể có trước hoặc sau khi tranh chấp xảy ra.
2. Vai trò của trọng tài thương mại quốc tế
Theo Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế ngày 21/06/1985 của UNCITRAL thì trọng tài sẽ mang tính chất quốc tế khi:
– Vào thời điểm giao kết thởa thuận trọng tài, các bên có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau hoặc;
– Một trong những yếu tố sau đây ở ngoài lãnh thổ nơi các bên có trụ sở kinh doanh: nơi xét xử trọng tài hoặc nơi thực hiện phần chủ yếu của nghĩa vụ trong quan hệ thương mại hoặc nơi có quan hệ mật thiết với nội dung tranh chấp hoặc;
– Các bên đã thởa thuận rõ ràng là nội dung chủ yếu của thởa thuận trọng tài liên quan đến ít nhất là hơn một nước.
Tính thương mại của trọng tài quốc tế: Các quan hệ mang tính chất thương mại bao gồm: các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ; thởa thuận phân phối, đại diện hoặc đại lý thương mại, thuê mua xây dựng công trình, tư vấn kỹ thuật, li xăng, đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, hợp đồng thăm dò, khai thác; liên doanh và các hình thức hợp tác liên doanh; vận tài hàng hóa hoặc hành khách bằn đường hàng không, biển, sắt hoặc đường bộ.
Như vậy, trọng tài thương mại quốc tế là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ các quan hệ tư pháp quốc tế, nhất là các quan hệ thương mại quốc tế mà pháp luật cho phép giải quyết được bằng trọng tài. Theo phương thức này, các bên nhất trí thỏa thuận với nhau sẽ đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại một cơ quan trọng tài nhất định nào đó.
3. Thẩm quyền của trọng tài thương mại quốc tế
-Trọng tài thương mại quốc tế không có thẩm quyền đương nhiên, chỉ có thẩm quyển khi các bên thỏa thuận lựa chọn.
-Thỏa thuận trọng tài có thể phát sinh trước hoặc sau thời điểm phát sinh tranh chấp.
-Thỏa thuận trọng tài có hiệu lực khi nội dung của trọng tài phải thể hiện ý chí chung của các bên, hiệu lực của trọng tài phải được thể hiện dưới hình thức văn bản.
-Thẩm quyền của trọng tài còn bị ảnh hưởng bởi phạm vi các tranh chấp: bị giới hạn xét xử trong một số những quan hệ thương mại , hay những tranh chấp phát sinh trong quan hệ hôn nhân, gia đình, thừa kế.
4. Vụ việc tranh chấp trong thương mại quốc tế và thẩm quyền giải quyết vụ việc
– Các bên:
+ Nguyên đơn: Người bán Mỹ
+ Bị đơn: Người mua Ân Độ
– Các vấn đề được để cập:
+ Thẩm quyền xét xử của trọng tài
+ Khước từ và bị hạn chế quyền tham gia tô tụng trọng tài
+ Phạm vi áp dụng của điều khoản trọng tài
+ Luật thực chất áp dụng
Tóm tắt vụ việc:
Nguyên đơn là một công ty tại New York hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, bán và thực hiện các dịch vụ đốỉ với một số loại trang thiết bị và các hoạt động kèm theo khác. Bị đơn là một công ty Ân Độ hoạt động trong lĩnh vực bán các sản phẩm được sản xuất bằng các trang thiết bị của Nguyên đơn tại Ấn Độ.
Theo hợp đồng, Nguyên đơn thoả thuận bán và cung cấp cho Bị đơn thiết bị và thực hiện các dịch vụ cho một nhà máy mới tại Ân Độ; Luật của bang New York sẽ điều chỉnh quyền và nghĩa vụ các bên. Điều khoản trọng tài quy định như sau:
“Bất cứ tranh chấp nào phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này mà các bên không có khả năng giải quyết thông qua đàm phán thương lượng thì sẽ được giải quyết chung thẩm theo quy tắc trọng tài ICC. Như quy định trong Quy tắc này, mỗi bên sẽ chọn một trọng tài viên, và Toà Trọng tài của ICC sẽ chọn trọng tài viên thứ ba. Tố tụng trọng tài sẽ được thực hiện vào thời gian và tại địa điểm do Toà Trọng tài quyết định. Phán quyết trọng tài có thể được cho thi hành tại bất kỳ toà án có thẩm quyền nào”.
Khi tranh chấp giữa các bên xảy ra, Nguyên đơn kiện Bị đơn ra trọng tài ICC yêu cầu Bị đơn thanh toán các khoản tiền trong đó có khoản lãi quá hạn trên số tiền mà Bị đơn chưa thanh toán.
Bị đơn phát đơn kiện Nguyên đơn lên Toà án Tôì cao Bombay yêu cầu Toà ra quyết định tuyên bố Nguyên đơn đưa tranh chấp ra giải quyết tại Toà án trọng tài là vượt quá phạm vi của điều khoản trọng tài.
Về phần mình, Nguyên đơn cho rằng việc đưa vụ tranh chấp ra trọng tài là tuân theo những quy định tại Đoạn 3 Luật 1961 của An Độ về việc công nhận và thi hành các phán quyết trọng tài nước ngoài mà những quy định đó tương đương với Điều II (3) của Công ước New York 1958.
Trên thực tế, Toà án Tối cao Bombay đã ra quyết định rằng vì Nguyên đơn đã đưa vụ kiện ra trọng tài nên Toà án này đình chỉ không xem xét vụ kiện mà Bị đơn đưa ra.
Trước uỷ ban trọng tài, Bị đơn lập luận rằng các trọng tài viên thiếu thẩm quyền và yêu cầu Trọng tài giải quyết các vấn đề sau đây:
Liệu các trọng tài viên có thẩm quyền quyết định phạm vi và hiệu lực của thoả thuận trọng tài hoặc có quyền xem xét và giải quyết đơn kiện của Nguyên đơn hay không?
Liệu Nguyên đơn có khước từ quyền tham gia vào tố tụng trọng tài của mình (nếu có) hay không?
Liệu Nguyên đơn có bị hạn chế tham gia vào tố tụng trọng tài hay không?
Nếu các trọng tài viên có quyền quyết định về phạm vi và hiệu lực của thoả thuận trọng tài và Nguyên đơn không từ chối cũng không bị hạn chế tham gia vào tố tụng trọng tài, thì khiếu kiện ra trọng tài của Nguyên đơn có thuộc phạm vi điều chỉnh của điều khoản trọng tài trong hợp đồng hay không? Nếu đúng vậy, thì đó là những khiếu nại nào? Nếu không, thì đó là những khiếu nại nào? Nếu không có khiếu nại thì không có tố tụng trọng tài nào được tiến hành. Nếu những khiếu nại được đưa ra trọng tài xem xét thì những vấn đề sau cần được xác định:
Liệu Nguyên đơn cớ được quyền mỏ rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài hoặc bổ sung thêm khiếu nại hay không? Luật nào là luật áp dụng?
5. Phán quyết của trọng tài:
5.1. Về quyền xác định thẩm quyền xét xử:
Bị đơn lập luận rằng: các trọng tài viên không có quyền xác định phạm vi hay hiệu lực của điều khoản trọng tài của Hợp đồng và không có quyền xem xét, ra quyết định đối với những khiếu nại của Nguyên đơn. Bị đơn cũng cho rằng trọng tài không thể quyết định việc các tranh chấp liên quan có thuộc phạm vi điều chỉnh của thoả thuận trọng tài hay không. Lý do mà Bị đơn đưa ra là: làm như vậy thì cũng có nghĩa là trọng tài quyết định luôn hiệu lực pháp lý của điều khoản trọng tài đối vói các tranh chấp liên quan và do đó, quyết định luôn thẩm quyền của chính mình.
Uỷ ban trọng tài cho rằng lập luận này của Bị đơn là hoàn toàn không thể chấp nhận được bỏi trên thực tế các bên đều thừa nhận rằng giữa họ có tồn tại một hợp đồng có hiệu lực có chứa một điều khoản trọng tài nên trọng tài không có nghĩa vụ xác định xem đây có phải là một hợp đồng vô hiệu hay bất hợp pháp hay không. Còn việc xác định xem một tranh chấp có thuộc phạm vi điều chỉnh của điều khoản trọng tài hay không là một vấn đề thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài vì Điều 8(3) và (4) Quy tắc tố tụng ICC quy định “mọi quyết định liên quan đến thẩm quyền của các trọng tài viên sẽ do chính các trọng tài viên quyết định”. Nói cách khác, các trọng tài viên có “thẩm quyền về thẩm quyền” (quyền quyết định rằng mình có thẩm quyền giải quyết hay không).
5.2. Khước từ và bị hạn chế quyền tham gia tố tụng trọng tài:
Bị đơn cho rằng Nguyên đơn đã khưốc từ quyền khởi kiện ra trọng tài của mình và đã bị hạn chế tham dự tố tụng trọng tài với lý do Nguyên đơn đã kiện ngân hàng bảo lãnh của Bị đơn ra Toà án tốỉ cao Calcuta yêu cầu thanh toán khoản lãi suất định kỳ mà thủ tục trọng tài này cũng đang giải quyết; và trước đó, Nguyên đơn đã kiện tại Toà án tối cao Calcuta đòi chính Ngân hàng đó thanh toán khoản tiền liên quan tới kỳ phiếu thứ năm của Hợp đồng.
Bị đơn cho rằng:
Không thể có hai cơ quan tài phán cùng có thẩm quyền xét xử, ra quyết định về cùng một vấn đề.
Phán quyết của Toà án Ân Độ không thể bị loại bỏ. Do đó, trọng tài sẽ không có thẩm quyền nữa.
Việc Nguyên đơn khởi kiện về cùng một vấn đề tại toà án Ân Độ mâu thuẫn với yêu cầu của chính Nguyên đơn rằng các bên có nghĩa vụ giải quyết các tranh chấp bằng con đường trọng tài và do vậy Nguyên đơn đã khưốc từ quyền tham gia ttố tụng trọng tài của mình và trong trường hợp này thì Nguyên đơn đã bị hạn chế tham gia vào tố tụng trọng tài.
Trong giải trình của mình Nguyên đơn cho rằng việc đưa những vụ kiện trên ra toà án là nhằm bảo đảm tính an toàn của thoả thuận bảo lãnh, một thoả thuận độc lập với hợp đồng mua bán đang xét. Bị đơn trong các vụ kiện này là Ngân hàng Ấn Độ, họ không phải là một bên trong Hợp đồng mua bán và không thuộc phạm vi điều chỉnh của điều khoản trọng tài của Hợp đồng. Nguyên đơn đã có một thoả thuận bảo lãnh với Ngân hàng và đó là cơ sở để đưa vụ kiện ra toà án Ấn Độ.
uỷ ban trọng tài thấy lập luận của Nguyên đơn là hoàn toàn hợp lý và đi đến kết luận rằng các vụ kiện tại toà án Ân Độ là những vụ kiện độc lập với vụ kiện đưa ra trưóc trọng tài và khôrig làm ảnh hưởng đến thẩm quyền của các trọng tài viên.
Theo quan điểm của các trọng tài viên, vụ kiện trưóc Toà án Ấn Độ do Nguyên đơn đưa ra không phải là lý do để kết luận rằng Nguyên đơn đã khước từ hay bị hạn chế tham gia tố tụng trọng tài.
5.3. Phạm vỉ điều chỉnh của điều khoản trọng tài:
Tiếp theo, Uỷ ban trọng tài phải quyết định về việc liệu đơn kiện của Nguyên đơn ra trọng tài này có nằm trong phạm vi áp dụng của điều khoản trọng tài trong Hợp đồng hay không.
Bị đơn cho rằng những khiếu nại của Nguyên đơn trong vụ việc này chủ yếu là về các lãi suất thường kỳ phát sinh từ hoặc liên quan đến các kỳ phiếu và đây là những thoả thuận riêng biệt và độc lập với thoả thuận của Hợp đồng, do đó không thuộc điều khoản trọng tài của Hợp đồng.
Để trả lời câu hỏi này Uỷ ban trọng tài phải xem xét xem những kỳ phiếu nói trên khi được thực hiện sẽ được coi là hình thức thanh toán đầy đủ hoặc thanh toán có điều kiện hay không bỏi về mặt nguyên tắc, một kỳ phiếu không thể được coi là hình thức thanh toán trừ khi nó là một bộ phận của Hợp đồng liên quan.
Trên cơ sỏ xem xét hợp đồng giữa các bên uỷ ban trọng tài thấy rằng các bên chưa bao giờ có ý định coi các kỳ phiếu là hình thức thanh toán toàn bộ các nghĩa vụ trả tiền theo hợp đồng. Tuy nhiên hợp đồng giữa các bên nêu rõ rằng các kỳ phiếu là chứng cứ cho các nghĩa vụ thanh toán thực hiện theo hợp đồng. Các kỳ phiếu này là các thanh toán có điều kiện: chúng sẽ hoàn toàn không có giá trị nếu Ngân hàng Ân Độ không cấp phép chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, cần phải coi các kỳ phiếu này là một phần không thể tách rời của hợp đồng và không thể tồn tại độc lập với hợp đồng. Như vậy, tranh chấp liên quan đến các kỳ phiếu cũng thuộc phạm vi áp dụng của điều khoản trọng tài.
Uỷ ban trọng tài cũng nhấn mạnh thêm rằng ngay cả khi các kỳ phiếu nói trên tồn tại độc lập, tách biệt với hợp đồng thì theo uỷ ban trọng tài phạm vi áp dụng điều khoản về trọng tài cũng vẫn đủ rộng để bao hàm cả những tranh chấp phát sinh giữa các bên từ các kỳ phiếu đó.
5.4. Luật áp dụng:
Bị đơn cho rằng luật áp dụng là luật của Ấn Độ với lý do đây là hệ thống luật mà hợp đồng và việc thực hiện hợp đồng có mối liên hệ chặt chẽ và thực tế.
Trong trưòng hợp các bên không có thoả thuận hoặc không nêu lên một cách rõ ràng về vấn đề luật áp dụng, thì các trọng tài viên đồng ý rằng luận điểm của Bị đơn có thể có giá trị.
Tuy nhiên, điều khoản về luật áp dụng trong hợp đồng đã quy định cụ thể rằng quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng này sẽ được điều chỉnh trên mọi phương diện bởi luật của bang New York, Mỹ . Trong trường hợp này, thoả thuận về luật áp dụng đã được nêu rõ trong hợp đồng, và do đó việc lựa chọn luật áp dụng không cần phải đặt ra.
Phán quyết:
Các trọng tài viện đã đưa ra quyết định của mình về các vấn đề trên như sau:
Trong vụ tranh chấp này, các trọng tài viên có đủ thẩm quyền xem xét và quyết định. Nguyên đơn không khước từ, cũng không bị hạn chế quyền tham gia tô” tụng trọng tài.
Khiếu nại của Nguyên đơn nằm trong phạm vi điều chỉnh của điều khoản trọng tài và luật áp dụng là luật của bang New York, Mỹ.