1. Khái niệm, cơ sở của TNHS đối với PNTM phạm tội

Điều 75 Bộ luật Dân sự năm 2015 quan niệm PNTM là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. PNTM bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt PNTM được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật Doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan. Cùng với đó, Điều 8 BLHS năm 2015 quy định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS hoặc PNTM thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa (XHCN) mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.

>>Xem thêm :Thực nghiệm điều tra là gì ? Quy định mới về thực nghiệm điều tra

Do đó, dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm đang đề cập được định nghĩa như sau: PNTM phạm tội là PNTM thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến khách thể được BLHS ghi nhận, bảo vệ mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.

Trên cơ sở này, khoản 2 Điều 2 BLHS năm 2015 đã quy định: “Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam, quy định về cơ sở trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với PNTM đã được ghi nhận, đồng thời đây chính là “tuyên bố” mang tính nền tảng, tiền đề để các nhà làm luật quy định những vấn đề khác trong nội dung TNHS đối với pháp nhân của BLHS năm 2015. Nhấn mạnh hơn, về vấn đề này, rõ ràng “hành vi, lỗi của người lãnh đạo, chỉ huy, người đại diện cũng được coi là hành vi, lỗi của pháp nhân. Như vậy, lý thuyết đồng nhất hóa trách nhiệm được các nhà lập pháp Việt Nam quy định là cơ sở quy định TNHS của PNTM” .

2. Thẩm quyền và thủ tục xét xử đối với pháp nhân được quy định như thế nào?

Khi có đủ căn cứ xác định pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì cơ quan có thẩm quyền sẽ ra quyết định khởi tố bị can đối với pháp nhân. Sau giai đoạn điều tra và truy tố sẽ là giai đoạn xét xử.

Quy định của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xét xử đối với pháp nhân được quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự 2015, cụ thể như sau:

>>Xem thêm :Các loại thực nghiệm điều tra ? Mục đích của thực nghiệm điều tra ?

Một là, Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự về các tội phạm do pháp nhân thực hiện là Tòa án nơi pháp nhân thực hiện tội phạm. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi pháp nhân đó có trụ sở chính hoặc nơi có chi nhánh của pháp nhân đó thực hiện tội phạm.

Hai là, việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với pháp nhân phạm tội được thực hiện theo thủ tục chung quy định tại Phần thứ tư và Phần thứ sáu của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Phiên tòa xét xử đối với pháp nhân phải có mặt người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp; có mặt bị hại hoặc người đại diện của bị hại.

3.Hình phạt và những quy định áp dụng đối với PNTM phạm tội

Lần đầu tiên trong BLHS năm 2015 đã quy định về hệ thống hình phạt và một chương độc lập – Chương XI “Những quy định đối với PNTM phạm tội” để áp dụng đối với đối tượng là PNTM phạm tội. Về hình phạt, BLHS năm 2015 quy định hai loại là hình phạt chính và hình phạt bổ sung áp dụng đối với PNTM phạm tội như sau:
– Hình phạt chính bao gồm: (1) Phạt tiền; (2) Đình chỉ hoạt động có thời hạn; (3) Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn (khoản 1 Điều 33).
– Hình phạt bổ sung bao gồm: (1) Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; (2) Cấm huy động vốn; (3) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính (khoản 2 Điều 33).

>> Xem thêm: Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là gì ? Quy định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự ?

Ngoài ra, Chương XI “Những quy định đối với PNTM phạm tội” đã quy định đầy đủ về điều kiện, phạm vi chịu TNHS; nội dung cụ thể về các hình phạt và biện pháp tư pháp cụ thể áp dụng đối với PNTM phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS; việc quyết định hình phạt, tổng hợp hình phạt, miễn hình phạt và xóa án tích đối với PNTM bị kết án (các điều 74-89). Đây là những căn cứ quan trọng để cùng với đó, tại Phần các tội phạm BLHS có quy định 33 tội danh cụ thể mà PNTM phải chịu TNHS , qua đó, bảo đảm tính hệ thống trong toàn bộ Phần những quy định chung và Phần các tội phạm của BLHS năm 2015.

Như vậy, có thể khẳng định, những quy định này không chỉ bảo đảm sự thống nhất chung của hệ thống pháp luật nước ta, mà còn nhằm thực thi các cam kết, nghĩa vụ của nước ta trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, qua đó, bảo đảm công bằng, minh bạch, bình đẳng giữa PNTM Việt Nam ở nước ngoài và PNTM nước ngoài tại nước ta.

4. Khái quát quy định về thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân trong BLTTHS

Cùng với việc ban hành BLHS năm 2015 với tư cách là luật nội dung, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 với tư cách là luật hình thức cũng đã quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân; hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự (TTHS), trong đó có quy định về thủ tục truy cứu TNHS đối với pháp nhân (nhưng không ghi rõ là PNTM – TG).

>>Xem thêm :Bức cung là gì ? Khái niệm bức cung được hiểu như thế nào ?

Do đó, việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân (ở đây được hiểu là PNTM) là một vấn đề hoàn toàn mới được đặt ra, đặc biệt là vấn đề thủ tục tố tụng truy cứu TNHS đối với đối tượng này nhằm đáp ứng kịp thời với những thay đổi của BLHS năm 2015 . Ở đây, quy định về TNHS của PNTM trong BLHS làm tiền đề để quy định thủ tục tố tụng truy cứu TNHS pháp nhân trong BLTTHS. Vì vậy, quá trình giải quyết vụ án hình sự cần làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh khi tiến hành tố tụng đối với pháp nhân bị buộc tội, đồng thời làm sáng tỏ các tình tiết, hành vi phạm tội của cá nhân hoặc pháp nhân (nếu có), trường hợp pháp nhân ra quyết định hoặc chỉ đạo cá nhân thực hiện hành vi phạm tội thì cần xử lý hình sự cả cá nhân và pháp nhân về tội mà họ đã thực hiện để giải quyết, xử lý tội phạm toàn diện, minh bạch, công minh, đúng pháp luật…

Khái niệm thủ tục tố tụng truy cứu TNHS đối với pháp nhân

Lần đầu tiên, BLTTHS năm 2015 đã quy định bị can, bị cáo là người hoặc pháp nhân. Theo đó, bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này (khoản 1 Điều 60). Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này (khoản 1 Điều 61).
Ngoài ra, điểm mới quan trọng và lớn nhất được quy định trong BLTTHS năm 2015 so với BLTTHScũ là các nhà lập pháp đã xây dựng một chương riêng là Chương XXIX “Thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân” (các Điều 431-446) với nhiều quy định về thủ tục, việc tham gia tố tụng, biện pháp cưỡng chế, những vấn đề cần phải chứng minh, cũng như trình tự điều tra, truy tố, xét xử… đối với đối tượng này. Trong đó, phạm vi áp dụng được xác định tại Điều 431 Bộ luật này, có nghĩa thủ tục tố tụng được tiến hành theo quy định tại Chương XXIX và những quy định khác trong BLTTHS không trái với quy định của Chương này.
Do đó, dưới góc độ khoa học luật TTHS, thủ tục tố tụng truy cứu TNHS pháp nhân là trình tự thực hiện các quy định của BLTTHS khi tiến hành giải quyết vụ án liên quan đến bị can, bị cáo là PNTM và áp dụng những quy định khác có liên quan, nhằm bảo đảm xử lý đúng đắn vụ án, cũng như góp phần đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Việc tham gia tố tụng của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân

Người đại diện theo pháp luật của PNTM có mối quan hệ rất chặt chẽ đối với pháp nhân, họ là người nhân danh pháp nhân tham gia các hoạt động. Do đó, khi BLTTHS năm 2015 quy định pháp nhân với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật TTHS thì mọi hoạt động tố tụng của pháp nhân bị truy cứu TNHS được thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Pháp nhân phải cử và bảo đảm cho người đại diện theo pháp luật của mình tham gia đầy đủ các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền. Trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hoặc không thể tham gia tố tụng được thì pháp nhân phải cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của mình tham gia tố tụng. Trường hợp pháp nhân thay đổi người đại diện thì pháp nhân phải thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng… Khi tham gia vào hoạt động tố tụng người đại diện theo pháp luật của pháp nhân được Nhà nước quy định cho họ những quyền và nghĩa vụ nhất định được quy định tại Điều 435 BLTTHS năm 2015.

Biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân bị buộc tội

>> Xem thêm: Giai đoạn thực hiện tội phạm là gì ? Khái niệm về giai đoạn thực hiện tội phạm

Để ngăn chặn việc pháp nhân tiếp tục phạm tội, cũng như hạn chế các hậu qủa do hành vi phạm tội của pháp nhân gây ra, qua đó, bảo đảm thi hành án liên quan đến việc bồi thường thiệt hại hoặc phạt tiền, BLTTHS năm 2015 quy định Cơ quan Điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế sau đây đối với pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử tại Điều 436 Bộ luật này bao gồm:
– Kê biên tài sản liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân;
– Phong tỏa tài khoản của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân;
– Tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân;
– Buộc nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án.
Lưu ý, quy định về thời hạn áp dụng các biện pháp cưỡng chế quy định tại khoản 1 Điều này không được quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử.

Những vấn đề cần phải chứng minh khi tiến hành tố tụng đối với pháp nhân bị buộc tội

Trong vụ án hình sự liên quan đến PNTM bị buộc tội, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh, xác định rõ các tình tiết đặc trưng gắn liền với pháp nhân tại Điều 441 BLTTHS năm 2015 bao gồm:
– Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội thuộc TNHS của pháp nhân theo quy định của BLHS.
– Lỗi của pháp nhân, lỗi của cá nhân là thành viên của pháp nhân.
– Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội của pháp nhân gây ra.
– Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS và tình tiết khác liên quan đến miễn hình phạt.
– Nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Trong đó, việc chứng minh vấn đề lỗi của pháp nhân là một vấn đề rất quan trọng trong vụ án mà pháp nhân thực hiện tội phạm.

Thẩm quyền và thủ tục xét xử đối với pháp nhân

>> Xem thêm: Cảnh sát điều tra là gì ? Tổ chức bộ máy của cơ quan cảnh sát điều tra

Điều 444 BLTTHS năm 2015 quy định, Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự về các tội phạm do pháp nhân thực hiện là Tòa án nơi pháp nhân thực hiện tội phạm. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi pháp nhân đó có trụ sở chính hoặc nơi có chi nhánh của pháp nhân đó thực hiện tội phạm. Việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với pháp nhân phạm tội được thực hiện theo thủ tục chung quy định tại Phần thứ tư và Phần thứ sáu của Bộ luật này. Phiên tòa xét xử đối với pháp nhân phải có mặt người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp; có mặt bị hại hoặc người đại diện của bị hại…
Như vậy, thủ tục tố tụng truy cứu TNHS pháp nhân chính là các trình tự thực hiện các quy định của BLTTHS khi tiến hành giải quyết vụ án liên quan đến bị can, bị cáo là PNTM, cũng như việc áp dụng những quy định khác có liên quan, qua đó, bảo đảm xử lý đúng đắn vụ án, TNHS của pháp nhân và TNHS của cá nhân, cũng như góp phần đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm và đề ra các biện pháp khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội.

5. Nguyên tắc xử lý đối với PNTM phạm tội

Khoản 2 Điều 3 BLHS năm 2015 quy định năm nguyên tắc xử lý đối với PNTM phạm tội bên cạnh xử lý đối với người phạm tội như sau:
– Mọi hành vi phạm tội do PNTM thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật;
– Mọi PNTM phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế;
– Nghiêm trị PNTM phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;
– Khoan hồng đối với PNTM tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra.

>> Xem thêm: Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là gì ? Quy định về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự

Ngoài ra, cần lưu ý, kể cả PNTM nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam cũng có thể bị truy cứu TNHS theo quy định của BLHS năm 2015 trong trường hợp hành vi phạm tội xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hoặc theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên (Điều 6 BLHS 2015).