1. Tạm giam và tạm giữ ?

– Tạm giam là biện pháp ngăn chặn với bị can, bị cáo; tạm giữ áp dụng với người phạm tội quả tang, vi phạm hành chính, đây cũng là biện pháp nghiêm khắc nhất trong hệ thống các biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam

Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang để cách li họ với xã hội trong một thời gian cần thiết nhằm ngăn chặn người đó tiếp tục phạm tội, cản trở điểu tra và xác định sự liên quan của người này đối với tội phạm.

 

2. Quy định chung về thời hạn điều tra ?

Thời hạn điều tra theo quy định tại Điều 172 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được tính như sau:

“1. Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.

2. Trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra.

Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:

a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 02 tháng;

b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá 03 tháng và lần thứ hai không quá 02 tháng;

c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng;

d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá 04 tháng.

3. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà thời hạn gia hạn điều tra đã hết nhưng do tính chất rất phức tạp của vụ án mà chưa thể kết thúc việc điều tra thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn thêm một lần không quá 04 tháng.

Đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần không quá 04 tháng.

4. Trường hợp thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, nhập vụ án thì tổng thời hạn điều tra không vượt quá thời hạn quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.”ờng hợp cơ quan điều tra tiếp nhận vụ án từ Cơ quan điều tra khác hoặc từ đơn vị bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm thì thời hạn điều tra cũng được tính từ ngày các cơ quan đó quyết định khởi tố vụ án.

 

3. Các loại thời hạn trong điều tra vụ án hình sự

2.1. Thời hạn điều tra

Theo quy định tại điều 172 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì:

Thời hạn điều tra là thời gian do pháp luật quy định để cơ quan điều tra hoàn thành điều tra vụ án. Thời hạn điều tra được tính từ khi khởi tố vụ án cho đến ngày kết thúc điều tra. Trong trường hợp cơ quan điều tra tiếp nhận vụ án từ cơ quan điều tra khác hoặc từ đơn vị bộ đội biên phòng, cơ quan hải quan, cơ quan kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển, cơ quan kiểm ngư… thì thời hạn điều tra cũng được tính từ ngày cơ quan đó ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.

Thời hạn điều tra vụ án hình sự không được quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Nếu do tính chất phức tạp của vụ án cần phải có thêm thời gian để điều tra thì trong thời hạn mười ngày trước khi hết hạn điều tra, cơ quan điều tra phải làm văn bản đề nghị viện trưởng viện kiểm sát gia hạn điều ha.

Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:

Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng.

Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng và lần thứ hai không quá hai tháng.

Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá bốn tháng.

Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.

Thẩm quyền gia hạn điều tra của viện kiểm sát cụ thể như sau:

Đối với tội phạm ít nghiêm trọng thì viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra. Trong trường họp vụ án được thụ lí ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra.

Đối với tội phạm nghiêm trọng thì viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai. Trong trường hợp vụ án được thụ lí điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện kiểm sát quân sự cấp quân khu được gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai.

Đối với tội phạm rất nghiêm trọng thì viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất, viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có thẩm quyền gia hạn điều tra lần thứ hai. Trong trường hợp vụ án được thụ lí điều tra tại cấp tỉnh và cấp quân khu thì viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai.

Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai; Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương gia hạn điều tra lần thứ ba.

Trong trường hợp vụ án được thụ lí để điều tra ở cấp trung ương thì việc gia hạn điều tra thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhấn dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương.

Như vậy, thời hạn điều tra tối đa (kể cả gia hạn) đối với tội phạm ít nghiêm trọng là không quá bốn tháng, tội phạm nghiêm

trọng là không quá tám tháng, tội phạm rất nghiêm trọng là không quá mười hai tháng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là không quá mười sáu tháng. Quy định này đòi hỏi cơ quan điều tra phải nâng cao chất lượng công tác điều tra, nâng cao trình độ nghiệp vụ, pháp luật cho cán bộ điều tra, sử dụng đồng bộ các biện pháp điều tra do Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định để bảo đảm việc kết thúc điều tra đúng thời hạn.

Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà thời hạn gia hạn điều tra đã hết nhưng do tính chất phức tạp của vụ án không thể kết thúc việc điều tra thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn thêm một lần không quá bốn tháng.

Đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn điều tra thêm một lần nữa không quá bốn tháng.

Khi đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra.

 

2.2. Thời hạn tạm giam để điều tra

Theo quy định tại Điều 173 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì:

Thời hạn tạm giam để điều tra là thời hạn do pháp luật quy định được tạm giam bị can để phục vụ cho việc điều tra vụ án.

Tạm giam là biện pháp ngăn chặn rất nghiêm khắc, cách li người bị tạm giam với xã hội bên ngoài, hạn chế quyền tự do thân thể và các quyền cơ bản của họ nên thời hạn tạm giam được pháp luật quy định rất chặt chẽ. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quả hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm ưọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm ưọng và tội phạm đặc biệt nghiêm ưọng;

Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị viện kiểm sát gia hạn tạm giam.

Thời hạn gia hạn tạm giam đối với từng loại tội phạm cụ thể như sau:

– Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá một tháng;

– Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá hai tháng;

– Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá ba tháng;

– Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần mỗi lần không quá bốn tháng.

Việc gia hạn tạm giam thuộc thẩm quyền của viện kiểm sát các cấp được quy định như sau:

Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, viện kiểm sát quân sự khu vực có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án được thụ lí để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Trường hợp gia hạn tạm giam lần thứ nhất đã hết mà vẫn chưa thể kết thúc việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam, xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị can để hoàn thành việc điều tra thì viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Trường hợp vụ án được thụ lí để điều tra ở cấp trung ương thì việc gia hạn tạm giam thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương.

Trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần không quá 04 tháng.

Trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam đã hết mà chưa thể kết thúc việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nhưng không quá 01 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trường hợp đặc biệt, đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia mà không có căn cứ để huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc điều tra.

Trường hợp cần thiết đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng không phải là tội xâm phạm an ninh quốc gia và không có căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nhưng không quá 04 tháng; trường hợp đặc biệt không có căn cứ để huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc điều tra.

Trong thời hạn tạm giam, nếu xét thấy không càn thiết phải tiếp tục tạm giam thì cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị viện kiểm sát huỷ bỏ việc tạm giam để trả tự dọ cho người bị tạm giam hoặc xét thấy cần thiết thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

Khi đã hết thời hạn tạm giam thi người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét thấy cần thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.

 

2.3. Thời hạn phục hồi điều tra

Theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì

Thời hạn phục hồi điều tra là thời hạn do pháp luật quy định để tiếp tục điều tra vụ án đã được phục hồi điều tra.

Đối với những vụ án đã có quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra nhưng có lí do để huỷ bỏ quyết định này thì cớ quan điều tra ra quyết định phục hồi điều tra nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Thời hạn phục hồi điều tra (điều tra tiếp) không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều tra.

Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn điều tra, cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị viện kiểm sát gia hạn điều tra. Thẩm quyền gia hạn điều tra theo quy định tại Điều 172 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và việc gia hạn điều tra được quy định cụ thể như sau:

– Đối với tội phạm ít nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lân không quá một tháng;

– Đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng;

– Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần không quá ba tháng.

 

2.4. Thời hạn điều tra bổ sung

Theo quy định tại khoản 2 Điều 174 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, thì:

Thời hạn điều tra bổ sung là thời hạn do pháp luật quy định để điều tra bổ sung đối với vụ án khi có yêu cầu của viện kiểm sát hoặc toà án cấp sơ thẩm.

Trong trường hợp vụ án do viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng. Nếu viện kiểm sát quyết định truy tố nhưng toà án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá một tháng. Thời hạn điều tra bổ sung được tính từ ngày cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra. Đê bảo đảm cho vụ án được giải quyết nhanh chóng, tránh tình trạng điều tra bổ sung quá nhiều lần kéo dài thời gian, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định viện kiểm sát chỉ được trả hồ sơ điều tra bổ sung tối đa hai lần; thẩm phán chủ tọa phiên toà chỉ được trả lại hồ sơ một lần; hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ một lần.

 

2.5. Thời hạn điều tra lại

Theo quy định tại khoản 3 Điều 174 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì:

Thời hạn điều tra lại là thời hạn do pháp luật quy định để tiến hành điều tra lại vụ án theo quyết định của hội đồng xét xử phúc thẩm, hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm. Điều tra lại được tiến hành ưong những trường họp vụ án được đưa ra xét xử nhưng toà án cấp phúc thẩm huỷ án sơ thẩm, hội đồng giám đốc thẩm, hội đồng tái thẩm huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để điều tra lại. Khi điều tra lại, thời hạn điều tra và gia hạn điều tra được áp dụng theo thủ tục chung quy định tại Điều 172 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Thời hạn điều tra lại được tính từ khi cơ quan điều tra nhận hồ sơ và yêu cầu điều tra lại.

Mọi vướng mắc pháp lý liên quan đến lĩnh vực tố tụng hình sự về thời hạn điều tra và quyền bào chữa, Hãy gọi ngay: 1900.0191 để được Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua tổng đài. Đội ngũ Luật sư của LVN Group giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp cụ thể. Trân trọng cảm ơn!