1. Lịch sử hình thành 

Hình thức chính thể cộng hòa tổng thống được sinh ra muộn hơn so với hình thức chính thể đại nghị và hình mẫu của nó là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ Nước Mỹ được hình thành bằng Hiển pháp năm 1787 bản Hiến pháp thành văn đầu tiên của thế giới, do nhu cầu của cuộc phòng thủ chung của 13 tiểu bang vừa giành độc lập muốn cùng đứng ra bảo vệ sự độc lập đã có của mình, vì cấu trúc liên  bang lỏng lẻo lúc bấy giờ được hình thành từ “Những điều khoản liên bang và liên minh vĩnh cửu” năm 1776 đã bộc lộ nhiều điểm yếu. Chính phủ quốc gia lúc bấy giờ không có quyền đưa ra các biểu thuế khi cần thiết để điều chỉnh nền thương mại họ không có quân đội chung 9 bang có quân đội riêng và một số bang khác lại có hải quân riêng, tồn tại rất nhiều loại tiền tệ. Một chính quyền trung ương vếu kém, không có quyền lực để hỗ trợ chính sách bằng sức mạnh quân sự, thì cũng không thể nào tránh được bị bó buộc trong ngoại giao. Hậu quả là một sự hỗn độn thực sự. Trong bối cảnh đó nảy sinh nhu cầu phải có một chính phủ trung ương mạnh hơn để thực thi một chính sách thống nhất. Nhưng vì e ngại trước  một nhà nước tập trung chuyên chế như các nhà nước Châu Âu mà họ đã phải rời bỏ để ra đi nên họ rất thận trọng với mọi sự tập trung quyền lực. Ý thức về thảm họa tiềm tàng và sự cần thiết có một sự thay đổi mạnh dạn đã bao trùm bầu không khi Hội nghị lập hiến(được bắt đầu vào ngày 25.5.1787). Tất cả các đại biểu đều tin rằng phải có một chính quyền trung ương hiện hữu với nhuwnhx quyền lực khả thi để thay thế cho một Quốc hội yếu kém được hình thành theo Điều lệ Liên bang và Liên minh vĩnh cửu được thông qua năm 1777.

Tư tưởng chủ đạo của những nhà lập hiến pháp Hoa Kỳ là rất cần  đến một nhà nước đủ mạnh để đảm bảo sự độc lập, phát triển kinh tế, duy trì an ninh quốc gia, nhưng cũng rất sợ sự tập trung quyền lực có thể trở thành sự chuyên chế của nhà nước. Với họ, Chính phủ hành pháp chỉ cần một cả nhân với Quốc hội lập pháp, mặc dù là tập thể đông người bao gồm những đại diện do nhân dân bầu ra, nhưng rất có thể trở thành độc tài. Mà hậu quả độc tài của tập thể đông người cũng có tác hại không khác gì chế độ độc tài chuyên chế cá nhân của các vị vua chúa phong kiến Châu Âu.

Bên cạnh những nhu cầu khách quan, việc hình thành một cách thức tổ chức quyền lực nhà nước cũng bị ảnh hưởng bởi ý muốn chủ quan của những người sáng lập ra nước Mỹ do nhu cầu của việc rút kinh nghiệm từ những bài học của lịch sử nhân loại. Các nhà lập quốc của Mỹ cho rằng Quốc hội khác đi là một tập thể đông người nhưng cũng không là gì cả cũng có khi làm sai và nhất là có thể trở thành độc tài. Do đó cần phải nghĩ ra các biện pháp nhằm kiềm chế Quốc hội. 

Như nhận thức ban đầu Hạ viên đầy quyền lực được bầu cử  phổ thông sẽ chịu sự kiểm soát của Thượng viện bảo thủ hơn do các cơ quan lập pháp các tiểu bang bầu chọn. Tuy nhiên, cả lúc Madison cũng đã lập luận tổng quát hơn các cơ quan tự  kiểm soát lẫn nhau và Hamilton đã bình luận trên rằng một Quốc hội dân chủ  bị kiểm soát bởi một Thượng viện dân chủ và cả hai viện sẽ chịu sự kiểm soát   của một Chánh án.

Mặc dù với những lập luận sắc sảo như vậy, những quyền xét xử của tòa án với những văn bản luật của Quốc hội cũng không được Hiến pháp thừa nhận một cách rõ ràng, mà phải chờ đến năm 1803, bằng phán quyết về cách giải thích của Chánh án Marshall trong vụ kiện Marbury khánh Madison, quyền đó mới được công nhận một cách đầy đủ như hiện nay.

Tất cả những lí do khách quan và chủ quan đó đã hình thành nên một chế độ chính trị mà sau này được gọi là chính thể tổng thống cộng hòa. Những lý do sinh ra chế độ chính trị Mỹ quốc có ảnh hưởng sâu sắc và chi phối rất lớn đến việc tổ chức các thiết chế chính trị của nhà nước Mỹ, đồng thời chúng cũng biến thành những đặc điểm của mô hình tổ chức quyền lực nhà nước Mỹ, một điển hình của chính thể tổng thống cộng hòa.

2. Cấu trúc của hình thức chính thể Cộng hòa Tổng thống ở Hoa kỳ

Thể chế Tổng thống, ra đời ở Hoa Kỳ, được lấy cảm hứng từ mô hình Anh quốc, giữ lại một số yếu tố cơ bản của mô hình này và thay đổi một số yếu tố khác. Nền dân chủ Mỹ giữ lại các yếu tố: quyền tự do cá nhân (individual liberty), phân chia quyền lực (Separation of Powers) và bầu cử người nắm quyền (Election of Governor); tuy nhiên, thay đổi một số yếu tố quan trọng: về cơ bản, thay thế Nhà vua bằng một Tổng thống Cộng hòa được lựa chọn thông qua bầu cử phổ thông, và giới thiệu các nguyên tắc Liên bang. Nhà nước Hoa Kỳ được hình thành dựa trên ba nhánh quyền lực riêng biệt, tách biệt nhau và cân bằng lẫn nhau: Hành pháp, Tư pháp và Lập pháp.
Những tác động quan trọng của các học thuyết và của lịch sử ảnh hưởng đến việc thiết kế Thể chế, với sự quan tâm trọng tâm vào việc tránh bằng mọi giá sự sự chuyên chế, chuyên quyền, độc tài (Tyrannia) của một cá nhân – trong nhánh Hành pháp, và của số đông, thông qua Quốc hội. Sau khi nghiên cứu các trường hợp trong lịch sử, những nhà lập hiến ở Philadelphia quyết định không bao giờ thiết lập một nhà nước với nhánh Hành pháp mạnh; ngược lại, sự thuyết phục chống chủ nghĩa toàn trị (anti-authoritarianism) và chống chủ nghĩa chuyên chế (anti-absolutism) đã dẫn đến quyết định xây dựng một hình mẫu hợp lý mà ở đó có thể kiểm soát được nhánh Hành pháp. Với mục đích không gây tổn hại tới tầng lớp giàu có, cũng như không muốn có một Quốc hội chuyên chế, chuyên quyền, các nhà lập hiến đã đưa đến ý tưởng một Thượng viện kiểm soát việc vượt quá giới hạn của đa số (Excess of majority), và được bầu chọn bởi Quốc hội của các Tiểu bang.
 

2.1. Hình thức Liên bang

Hiến pháp Mỹ là thành quả của hàng loạt thỏa thuận giữa các Tiểu bang độc lập, muốn giữ cho mình những lợi ích riêng và sự độc lập. Để điều hòa các lợi ích của các Tiểu bang, từ bé đến lớn, từ Bắc xuống Nam, dẫn đến quyết định thiết lập một Quốc hội gồm hai viện, nhưng tính chất khác biệt hoàn toàn so với ở Anh quốc: một viện, đại diện cho các Tiểu bang, cả lớn và nhỏ, trên cơ sở bình đẳng và một viện đại diện cho nhân dân. Chính xác hơn, Thượng Viện (Senate) đại diện cho chính quyền các Tiểu bang trong khi Viện dân biểu hay Hạ viện (House of Representatives) đại diện cho ý chí nhân dân.

Hình thái Liên bang được ra đời, như một cách thức để phân bổ quyền lực giữa chính quyền Liên bang và chính quyền các Tiểu bang. Chính quyền các Tiểu bang sở hữu một phần quyền lực quan trọng. Hơn hết cả, Chính quyền được chọn bởi bầu cử trực tiếp hoặc gián tiếp.
Nhánh Hành pháp được lựa chọn dựa trên cuộc bầu cử phổ thông gián tiếp (indirect universal suffrage). Các nhà lập hiến đã nhận ra rất nhiều nguy cơ cho nền dân chủ trong cuộc bầu cử trực tiếp Tổng thống, bởi nó cho phép nhánh Hành pháp có khả năng gây ảnh hưởng trực tiếp tới dân chúng và thiết lập quyền lực cá nhân. Để ngăn chặn tối đa khả năng chệch hướng sang chủ nghĩa mị dân (demagogism), các nhà lập hiến đã loại bỏ việc bầu cử trực tiếp Tổng thống, mà thay vào đó là bầu cử gián tiếp qua các Đại cử tri, được lựa chọn bởi các Tiểu bang tương ứng với phần trăm dân chúng. Nền Cộng hòa được ra đời như thế.
Các cơ quan Liên bang sở hữu chức năng chính, trong cả vấn đề kinh tế lẫn chính trị, mặc dù nó không thể không nhìn nhận tầm quan trọng căn bản của chính quyền địa phương. Về phương diện pháp lý, chính quyền địa phương tự tạo ra luật dân sự, hình sự và thương mại riêng của mình. Vì vậy, luật của các Tiểu bang là khác nhau. Sự độc lập của chính quyền địa phương thể hiện rõ nhất ở khía cạnh trên thực tế, mỗi Tiểu bang có cho mình một Hiến pháp riêng, nhưng với điều kiện, phải tôn trọng các nguyên tắc Liên bang, tôn trọng Hiến pháp chung của Hợp chúng quốc. Ở mỗi Tiểu bang trong Liên bang tồn tại một chính quyền đúng nghĩa: một Thống đốc (Governor), đứng đầu Hành pháp, được lựa chọn bởi bầu cử phổ thông; một Quốc hội địa phương, có quyền Lập pháp và các Thẩm phán tiểu bang và địa phương, 82% trong số các Thẩm phán được chọn thông qua cuộc bầu cử mở. Hệ thống chính trị Hoa Kì hoạt động ổn định nhờ vào khả năng giải quyết các vấn đề công nằm trong tay các Tiểu bang. Chính quyền các Tiểu bang đáp lại sự chỉ đạo của chính quyền trung ương và áp dụng nó theo cách của mình, nhanh chóng và hiệu quả. Điều này làm giảm áp lực lên Chính quyền trung ương và giảm các mâu thuẫn giữa các cấp chính quyền. Chúng ta cần nhắc đến sự thật lịch sử rằng ở Mỹ, luôn luôn tồn tại một khía cạnh quan trọng của nền kinh tế – khu vực Tư nhân (private sector), ở khu vực này sức nặng và trách nhiệm của Nhà nước là thứ yếu. Vì vậy, có một sự độc lập mạnh mẽ của xã hội dân sự trong mối quan hệ với chính quyền.

2.2. Phân chia quyền lực

Sự phân chia quyền lực (Separation of Powers) là một trong những yếu tố cơ bản của hệ thống Hoa Kỳ. Các nhà lập hiến ở Philadelphia đã áp dụng nó trong tất cả các cấp của đời sống chính trị và xã hội.
Nhánh Tư pháp, đứng đầu là Tối cao Pháp viện (Supreme Court of Justice), các Tòa án tối cao các bang, và các Tòa án địa phương. Hầu hết các Tòa án đều được tạo ra dựa trên bầu cử, cũng như ở Hành pháp và Lập pháp. Nhưng ở trong Tối cao Pháp viện (Supreme Court), nguyên tắc lại khác. Có 9 thẩm phán tất cả, nhưng không được chọn thông qua bầu cử mà được chính Tổng thống chọn và được thông qua bởi Thương viện (có thể từ chối). Tối cao Pháp viện có đặc quyền tuyên bố một đạo luật được thông qua bởi Quốc hội hoặc đề xuất của Tổng thống là vi hiến (Unconstitutional). Trong lịch sử, Tòa án Tối cao thường không can thiệp vào các hành động của Quốc hội, tuy nhiên, trong các trường hợp xung đột giữa các nhánh quyền lực, giữa Quốc hội và Tổng thống, Tối cao Pháp viện có quyền tài phán chung thẩm. Đối với hệ thống Hoa Kì, Tối cao pháp viện nắm giữ một vai trò tối quan trọng: là nhân tố kiểm soát sự cân bằng trong hệ thống Liên bang và giữa các nhánh quyền lực nói chung.
Sự kiểm soát quân sự bởi quyền lực dân sự cũng là một vấn đề đáng để bàn tới. Ở Hoa Kỳ, trong suốt Thế chiến Thứ hai, đã có tranh luận liên quan tới khái niệm một quyền lực quân sự được chuyên nghiệp hóa, nhưng cuối cùng đã bị bác bỏ. Từ đó cho tới nay, chỉ tồn tại các khái niệm như công dân có vũ trang, dân quân tự vệ, được hình thành bởi các công dân bình thường đã được huấn luyện quân sự trong đời. Vệ binh quốc gia, bị phân tán và phân quyền, thể hiện uy quyền mạnh mẽ của quyền lực dân sự đối với quân sự, tránh sự can thiệp trực tiếp của giới quân sự vào chính trị.

3. Hình thức bầu cử

Hành pháp và lập pháp không chịu trách nhiệm lẫn nhau, lập pháp do dân bầu, hành pháp cũng do dân bầu. Với cách tổ chức này, nguyên thủ quốc gia không những là người đứng đầu Nhà nước mà còn đứng đầu hành pháp. Trên thực tế, quyền lực của tổng thống (Nguyên thủ quốc gia) hầu như một ông Vua, nhưng không do thế tập truyền ngôi mà do bầu cử.

Quyền lực của nhánh lập pháp được trao cho Nghị viện (Quốc hội). Theo chế độ lưỡng viện, Nghị viện gồm có Viện dân biểu (Hạ viện) và Thượng viện. Hiến pháp Mỹ trao cho Nghị viện quyền hành rất lớn, đó là quyền lập pháp, quyền sửa đổi Hiến pháp và pháp luật… Bên cạnh đó, Nghị viện còn có hai quyền quan trọng là: quyền giám sát hoạt động của Chính phủ và quyền điều tra. Nghị viện cũng có quyền tư pháp nhất định.  Quyền lực của nhánh hành pháp được trao cho Tổng thống và Chính phủ. 
Ở Mỹ, Tổng thống Mỹ phải là người ít nhất 35 tuổi, phải là công dân Mỹ trong 14 năm và được sinh ra ở Mỹ. Nhiệm kỳ của Tổng thống được cố định là 4 năm và mỗi Tổng thống chỉ có thể giữ cương vị tối đa 2 nhiệm kỳ. Tổng thống được bầu thông qua lá phiếu của đại cử tri. Mỗi bang có số đại cử tri bằng số Thượng nghị sĩ và hạ Nghị sĩ của bang đó cộng lại. Tổng thống là nguyên thủ quốc gia và là người đứng đầu nhánh hành pháp Trên thực tế, Tổng thống là cá nhân nắm giữ những quyền lực lớn nhất trong toàn bộ hệ thống chính trị Mỹ.