Bằng việc ban hành các sắc thuế, nhà nước thực hiện vai trò quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp, sử dụng hệ thống chính sách thuế như một công cụ không chỉ để điều tiết nền kinh tế mà còn nhằm quản lý hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Đảm bảo ổn định nguồn thu ngân sách nhà nước, thực hiện phân phối thu nhập và định hướng kinh doanh.
Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Thuế của Công ty luật LVN Group
>> Luật sư tư vấn pháp luật Thuế, gọi: 1900.0191
Trả lời:
Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn luật đến Bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật của Công ty Luật Minh Khuê. Nội dung câu hỏi của bạn đã được đội ngũ Luật sư của LVN Group của Chúng tôi nghiên cứu và tư vấn cụ thể như sau:
Cơ sở pháp lý
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2016
Luật sư tư vấn
1. Thực trạng thực hiện pháp luật về thuế ở Việt nam hiện nay
Kê khai, nộp thuế: quy định về kê khai, nộp thuế bao gồm những nội dung trình tự đã được tổng kết và có tính phản ánh quy luật của đối tượng nộp thuế từ khâu trước khi tiến hành hoạt động làm phát sinh nghĩa vụ thuế đến khâu phải nộp một khoản tiền thuế cho kho bạc nhà nước theo thời hạn định trước. Việc quy định và tuân thủ quy định về kê khai nộp thuế thể hiện thái độ của nhà nước đối với người nộp thuế và mức độ tuân thủ pháp luật của người nộp thuế.
Điều này cũng lý giải việc không tuân thủ hoặc tuân thủ không đúng quy định về kê khai, nộp thuế là nguy cơ gây ra những hậu quả pháp lý nhất định cho người nộp thuế. Bên cạnh đó những quy định về trình tự thủ tục kê khai nộp thuế cũng cần được cụ thể, chi tiết và cần có tính khả thi cao. Mỗi loại thuế có thể quy định đồng thời 3 phương pháp: kê khai nhưng nộp thuế theo quyết định của cơ quan thu, nộp thuế khoán, tự kê khai và tự nộp thuế.
Thuế thu nhập doanh nghiệp đánh trực tiếp vào thu nhập của tổ chức sản xuất kinh doanh và làm giảm ngay khả năng sử dụng thu nhập có được của doanh nghiệp nên loại thuế này gây cảm giác mất mát cho người nộp thuế, và vì vậy dễ gây ra phản ứng từ đối tượng nộp thuế, dẫn đến tình trạng trốn thuế.
Khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp rất phức tạp, khó kiểm soát, vì vậy các cơ quan quản lý thuế phải đầu tư nhiều cả về tài lực, vật lực, nhân lực cho công tác quản lý lĩnh vực thuế này. Việc quản lý thuế rất khó khăn, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ thuế đông đảo và có trình độ chuyên môn, quản lý kinh tế cao, kèm theo việc áp dụng các phương tiện quản lý có kỹ thuật hiện đại với một hệ thống pháp luật đầy đủ, có hiệu lực và quan hệ giao tiếp công vụ tốt.
Liên quan đến quá trình thực hiện nghĩa vụ thu nộp thuế xuất nhập khẩu (XNK), pháp luật Việt Nam về thuế XNK quy định cụ thể về đồng tiền nộp thuế, tỷ giá tính thuế, đăng ký, kê khai hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và nộp thuế, các vấn đề về thủ tục xét miễn thuế, hoàn lại thuế, truy thu thuế, xử lý khiếu nại và các vi phạm về thuế. Những quy định này hướng tới việc đảm bảo lợi ích cho các chủ thể tham gia hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa trong mối quan hệ với yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhaoaj khẩu và phù hợp với xu hướng chung của thế giới.
Hoạt động quản lí thuế có vai trò đảm bảo cho chính sách thuế được thực thi nghiêm chỉnh trong thực tiễn đời sống kinh tế xã hội. Trải qua thời gian, thuế luôn có sứ mệnh thực hiện những chức năng cao cả của nó như điều tiết kinh tế vĩ mô, phục vụ mục tiêu tăng trưởng của đất nước hay phân phối thu nhập nhằm đảm bảo sự công bằng giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Tuy nhiên, các mục tiêu này chỉ trở thành hiện thực nếu các cơ quan quản lí thuế thực hiện điều hành, giám sát tốt việc nộp thuế đúng đủ, đúng hạn số thuế phải nộp vào ngân sách nhà nước. Vì vậy, hoạt động quản lí thuế có vai trò quyết định cho sự thành công của từng chính sách thuế.
2. Thực trạng quản lý thuế và các yêu cầu đặt ra đối với cơ quan Kiểm toán nhà nước
2.1 Thực trạng công tác kiểm toán thuế trong thời gian qua
Sau hơn 20 năm xây dựng và trưởng thành, kết quả kiểm toán của Kiểm toán nhà nước đã có tác động tích cực đến hoạt động quản lý thu ngân sách của các bộ ngành, địa phương và ý thức chấp hành pháp luật thuế của người nộp thuế. Kiểm toán nhà nước đã trở thành công cụ hữu hiệu ngăn ngừa những sai phạm trong việc tuân thủ pháp luật thuế. Qua kiểm toán cho thấy mức độ vi phạm pháp luật thuế còn cao, diễn ra ở hầu hết các địa phương và các loại hình doanh nghiệp và các sắc thuế; chất lượng công tác thanh, kiểm tra thuế còn hạn chế, còn bỏ sót nhiều sai phạm của doanh nghiệp như: áp dụng không đúng thuế suất thuế giá trị gia tăng, kê khai ưu đãi và miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và thực hiện miễn giảm thuế sai quy định, áp đơn giá đất để tính tiền sử dụng đất chưa đúng… Kết quả kiểm toán năm 2014, kiểm toán nhà nước đã phát hiện và kiến nghị tăng thu về thuế và các khoản khác cho ngân sách nhà nước 4.497,8 tỷ đồng. Ngoài ra, qua kiểm toán đã phát hiện một số bất cập, sai phạm về tuân thủ pháp luật thuế mang tính phổ biến, như:
– Một số đối tượng nộp thuế chưa tuân thủ đúng pháp luật trong kê khai, nộp thuế, dẫn đến nguồn thu NSNN không được nộp đầy đủ và kịp thời. Công tác điều hành, quản lý thu tiền thuê đất, tiền sử dụng đất tại một số địa phương chưa đảm bảo quy định của Nhà nước; đồng thời việc thực hiện các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực này còn bất cập, chưa đồng bộ, dẫn đến huy động không đầy đủ, kịp thời nguồn thu vào NSNN, như xác định miễn giảm thuế đối với thu nhập từ hoạt động chuyển quyền sử dụng đất, chuyển quyền thuê đất, áp sai giá đất, xác định không đúng hệ số tính giá thuê đất, ưu đãi đầu tư sai; thời điểm áp dụng văn bản tính thuế không phù hợp làm thất thu thuế…
– Nhiều đơn vị chưa kê khai hoặc kê khai không đầy đủ các khoản thuế từ hoạt động kinh doanh; một số đối tượng nộp thuế chưa tuân thủ pháp luật trong kê khai, nộp thuế; chất lượng công tác thanh, kiểm tra còn hạn chế, còn bỏ sót một số sai phạm của doanh nghiệp trong kê khai doanh thu, chi phí, thuế GTGT đầu vào, áp dụng không đúng thuế suất thuế GTGT, kê khai ưu đãi và miễn giảm thuế TNDN không đúng quy định;…
– Công tác hoàn thuế, xoá nợ và miễn giảm thuế sai quy định; xác định số nợ đọng thuế chưa đầy đủ.
Ngoài ra, qua kiểm toán KTNN đã gửi hàng trăm kiến nghị về chấn chỉnh công tác quản lý thu thuế đối với các bộ, ngành, địa phương, trong đó có nhiều kiến nghị hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật thuế. Riêng năm 2014, KTNN đã kiến nghị các bộ, cơ quan trung ương và địa phương rà soát để hủy bỏ, bổ sung hoặc thay thế 110 văn bản (trong đó có 01 văn bản liên quan đến lĩnh vực thuế) không phù hợp với quy định chung của nhà nước. Các kiến nghị kiểm toán của KTNN đã góp phần giúp các các bộ, ngành, địa phương, đặc biệt là cơ quan Thuế hoàn thiện cơ chế, chính sách thuế; truy thu thuế; nâng cao tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả của công tác tổ chức thu thuế; giúp các doanh nghiệp phát hiện và khắc phục các tồn tại, sai sót trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế với NSNN và nhận thức được trách nhiệm trong việc chấp hành pháp luật thuế.
Bên cạnh kết quả đã đạt được, công tác kiểm toán thuế trong thời gian qua còn nhiều hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng kiểm toán, cụ thể:
– Thứ nhất, các báo cáo kiểm toán chủ yếu nặng về phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật thuế của người nộp thuế để từ đó kiến nghị tăng thu NSNN. Việc kiểm toán đánh giá sự tuân thủ pháp luật, hiệu quả, hiệu lực trong hoạt động tổ chức thu thuế của cơ quan quản lý thu chưa được quan tâm, chú trọng. Các đánh giá kiểm toán về công tác quản lý thu chủ yếu dựa trên số báo cáo của đơn vị như: số liệu thu thuế, tỷ lệ thực hiện dự toán, nợ đọng, miễn giảm…; chưa tập trung phân tích, đánh giá tồn tại, bất cập trong công tác quản lý thu thuế, nhất là việc ban hành các văn bản pháp quy liên quan đến thuế và quản lý thu thuế của các bộ, ngành, địa phương; chưa phân tích, làm rõ được nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý điều hành nên chất lượng các ý kiến tư vấn, kiến nghị hoàn thiện công tác quản lý thu thuế chưa cao.
– Thứ hai, phạm vi kiểm toán việc tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế còn hạn chế. Việc kiểm toán chủ yếu thực hiện trong quá trình kiểm toán báo tài chính tại các doanh nghiệp nhà nước và kiểm tra hồ sơ kê khai, quyết toán thuế của đối tượng nộp thuế tại đơn vị quản lý thu. Việc kiểm toán nghĩa vụ thuế tại các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế khác được thực hiện thông qua hình thức đối chiếu nhưng do thiếu cơ sở pháp lý và KTNN chưa quy định cụ thể, rõ ràng về nội dung, phạm vi kiểm toán tại các đối tượng này nên quá trình kiểm toán gặp nhiều khó khăn.
– Thứ ba, số lượng đối tượng nộp thuế lớn, địa bàn rộng khắp trong khi nguồn nhân lực của cơ quan kiểm toán còn hạn chế, dẫn đến mẫu chọn kiểm toán chiếm tỷ lệ nhỏ trong số lượng đối tượng quản lý. Mặt khác, việc quản lý thuế được thực hiện qua các phần mềm quản lý thuế, trong khi kiểm toán viên chỉ thực hiện kiểm toán trên hồ sơ do cơ quan quản lý thuế chiết xuất, dó đó hạn chế đến kết quả kiểm toán.
2.2 Nguyên nhân của những thực tại tồn đọng
– Cơ sở pháp luật chưa rõ ràng về trách nhiệm của KTNN đối với kiểm toán thuế nên phạm vi kiểm toán còn hẹp, chưa bao quát hết các đối tượng nộp thuế. Việc kiểm toán thuế mới chỉ thực hiện tại các doanh nghiệp nhà nước, tại cơ quan quản lý thu, trong khi đối tượng nộp thuế rộng, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác xã, hộ cá thể kinh doanh…
– Sự phối hợp với các cơ quan quản lý thu với KTNN chưa tốt; KTNN chưa thể truy cập và khai thác được dữ liệu quản lý của ngành Thuế.
– Chưa thực hiện kiểm toán theo phương pháp phân tích rủi ro, xác định trọng yếu kiểm toán nên chức năng xác nhận bị hạn chế.
– Quy trình kiểm toán chưa quy định cụ thể, nhất là nội dung, phạm vi, quyền hạn khi thực hiện việc đối chiếu thuế tại các đối tượng nộp thuế. Chất lượng kiểm toán viên còn nhiều hạn chế…
2.3 Giải pháp
-Thứ nhất, đổi mới phương pháp thu thập và xử lý thông tin trong việc xây dựng kế hoạch kiểm toán thuế: Nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả tuân thủ pháp luật trong hoạt động kiểm toán, đặc biệt trong lĩnh vực thuế có phạm vi, đối tượng liên quan trực tiếp và gián tiếp rất rộng vì vậy cần đổi mới phương pháp thu thập và xử lý thông tin trong việc xây dựng kế hoạch kiểm toán thuế, trong đó lựa chọn số lượng đối tượng kiểm toán dựa trên đánh giá rủi ro thuế đối với đối tượng kiểm toán trên nguyên tắc các đối tượng kiểm toán phải đại diện cho tổng thể. KTNN cần nghiên cứu, hướng dẫn các phương pháp thu thập và xử lý thông tin trong việc xây dựng kế hoạch kiểm toán thuế theo từng chuyên đề chuyên sâu đối với từng sắc thuế như: chuyên đề kiểm toán thực hiện chính sách pháp luật về thuế GTGT, thuế TNDN, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hay chuyên đề thuế nhà đất, thuế sử dụng đất… nhằm đánh giá chuyên sâu theo từng sắc thuế, tránh nợ đọng, gian lận, chống thất thu thuế cho ngân sách nhà nước.
– Thứ hai, đổi mới cách thức tổ chức kiểm toán thuế, thành lập đoàn kiểm toán độc lập với kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách: Cần xác định đối tượng kiểm toán gắn với mục tiêu kiểm toán mang tính chuyên sâu để thành lập đoàn kiểm toán tương ứng, bởi vậy cần đổi mới theo hướng tăng cường tổ chức các cuộc kiểm toán chuyên đề chuyên sâu, hạn chế việc thực hiện kiểm toán lồng ghép. Có như vậy mới góp phần cung cấp kịp thời yêu cầu công tác quản lý, điều hành, giám sát lĩnh vực thuế của các cấp quản lý, góp phần giúp KTNN đào tạo được đội ngũ KTV chuyên sâu về lĩnh vực kiểm toán này.
– Thứ ba, tăng cường thực hiện chức năng kiểm toán hoạt động khi thực hiện kiểm toán, nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu đánh giá tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực trong quản lý và sử dụng NSNN: Hiện nay, KTNN đang tập trung cho loại hình kiểm toán tuân thủ trong lĩnh vực kiểm toán thuế, tuy nhiên để KTNN trở thành một công cụ mạnh của Nhà nước trong công tác kiểm tra tài chính nhà nước, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của công tác quản lý tài chính quốc gia và phù hợp với xu thế hội nhập và phát triển, KTNN cần triển khai một cách đồng bộ thực hiện đầy đủ cả ba loại hình kiểm toán: Kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động; trong đó tập trung phát triển kiểm toán hoạt động để đánh giá hiệu quả công tác quản lý thuế, hiệu quả các chính sách thuế nhằm đưa ra những ý kiến tư vấn, kiến nghị hoàn thiện công tác quản lý thu thuế chưa cao.
– Thứ tư, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác nghiệp vụ kiểm toán thuế: Ngày nay, công nghệ tin học đã phát triển mạnh mẽ, nhất là trong lĩnh vực quản lý thuế, quá trình theo dõi, quản lý người nộp thuế đều được sử dụng bằng những phần mềm chuyên dụng. Bởi vậy, để có thể đáp ứng tốt nhiệm vụ công tác kiểm toán thuế trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi các kiểm toán viên cũng phải có những công cụ hỗ trợ về công nghệ thông tin mới có thể tiếp cận được đối tượng kiểm toán và thực hiện kiểm toán một cách hiệu quả. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm toán sẽ giúp cho KTV nâng cao hiệu quả, chất lượng và tiết kiệm thời gian kiểm toán.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Bộ phận tư vấn pháp luật Thuế – Công ty luật LVN Group