1. Khái quát sự tác động của FDI đến thương mại và đầu tư

Sự tăng nhanh FDI trong thập kỷ qua đã đưa lĩnh vực thương mại và đầu tư lên vị trí hàng đầu trong công cuộc toàn cầu hóa.

Các chế độ đầu tư tự do hơn, kết hợp với chính sách vĩ mô nhất quán, cho phép mở rộng hơn nữa những ảnh hưởng có lợi do sự có mặt của doanh nghiệp nước ngoài tác động đối với tăng trưởng, cạnh tranh, năng suất, đổi mới và tạo việc làm (tuy các nhà phê bình cho rằng đầu tư nước ngoài “xuất khẩu” việc làm. FDI có vai trò đặc biệt mạnh mẽ trong việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới của các nước chậm phát triển. Vì vậy với tư cách là một phương tiện để hội nhập kinh tế, tiềm năng của đầu tư quốc tế còn có thể được khai thác một cách có hiệu quả hơn.

Hiện nay còn thiếu những qui tắc có tính chất ràng buộc đa biên để có thể kiểm soát những chính sách hạn chế của quốc gia tác động đến FDI, mặc dù Hiệp định chung về Thương mại trong dịch vụ (GATS) của WTO đã có bước tiến đáng kể bằng cách đưa vào các điều khoản về sự hiện diện thương mại ở nước ngoài. Thoả thuận này coi đầu tư như tiền đề cho sự cung cấp các dịch vụ quốc tế.

 

2. Ưu thế của FDI trong thương mại hàng hóa 

Thương mại là hoạt động trao đổi của cải, hàng hóa, dịch vụ, kiến thức, tiền tệ… giữa hai hay nhiều đối tác, và có thể nhận lại một giá trị nào đó (bằng tiền thông qua giá cả) hay bằng hàng hóa, dịch vụ khác như trong hình thức thương mại hàng đổi hàng (barter). Trong quá trình này, người bán là người cung cấp của cải, hàng hóa, dịch vụ… cho người mua, đổi lại người mua sẽ phải trả cho người bán một giá trị tương đương nào đó.

Hàng hoá là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện khi có nền sản xuất hàng hoá, đồng thời sản phẩm lao động mang hình thái hàng hoá khi nó là đối tượng mua bán trên thị trường. Hàng hóa là sản phẩm của lao động, thỏa mãn mong muốn, nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi hay mua bán.

Karl Marx định nghĩa hàng hoá trước hết là đồ vật mang hình dạng có khả năng thoả mãn nhu cầu con người nhờ vào các tính chất của nó. Để đồ vật trở thành hàng hoá cần phải có: 

  • Tính hữu dụng đối với người dùng 
  • Giá trị (kinh tế), nghĩa là được chi phí bởi lao động. 
  • Sự hạn chế để đạt được nó, nghĩa là độ khan hiếm.

 

Như vậy, về những ưu thế của FDI xét về thương mại hàng hóa ta có thể kể đến như sau:

FDI theo chiều dọc (tức là những loại hình hoạt động tương tự nhưng ở các nước khác nhau) giúp cho việc giảm giá thành sản xuất, trong khi đó FDI theo chiều ngang (tức là các giai đoạn sản xuất khấc nhau ở các nước khác nhau) cho phép thu được lợi nhuận từ những lợi thế tại chỗ như giảm giá thành vận chuyển, kế cận với người tiêu thụ, phát triển và điều chỉnh thị trường theo những tiêu chuẩn địa phương.

Sự có mặt tại chỗ nhằm phục vụ thị trường nội địa tại nước chủ nhà có thể xem như là một phương tiện để tránh những rào cản nhập khẩu do nước chủ nhà đặt ra.

Tuy nhiên FDI hướng vào những thị trường có bảo hộ thường dẫn đến kết quả là các đơn vị kinh doanh độc lập được thiết kế chủ yếu để sản xuất cho thị trường nội địa. Trái lại, mức bảo hộ nhập khẩu thấp có xu hướng thu hút FDI tới các doanh nghiệp hướng vào xuất khẩu có tính cạnh tranh quốc tế, do vậy sẽ mở rộng thương mại ở nước chủ nhà.

 

3. Bàn về sự tác động của FDI đến với thương mại 

Đối với sự tác động của FDI đến với thương mại, FDI dường như có ảnh hưởng tích cực đến thương mại: những bằng chứng dựa theo kinh nghiệm cho thấy rằng khi tăng DFI thường đi đôi với tăng xuất khẩu của cả nước xuất xứ đầu tư và nước chủ nhà, trong khi đó tác động của nó đối với nhập khẩu ít hơn, nhưng vẫn có tính tích cực. Bằng chứng này trái ngược với quan điểm có tính truyền thống hơn cho rằng FDI thay thế cho xuất khẩu.

Đi đôi với việc tháo gỡ những qui định trong dịch vụ tài chính, chính phủ các nước đã có những nỗ lực đáng kể, nhất là trong những nền kinh tế chuyển đổi và các nước đang phát triển nhằm xoá bỏ những qui định mang tính hạn chế và phân biệt trong FDI, như cho quyền ưu tiên, giới hạn các cổ phần, giới hạn việc chuyển lợi nhuận. Hình mẫu tự do hoá vẫn còn mang tính chắp vá, chính là do có nhiều những đòi hỏi có đi có lại đang còn tồn tại. Do đó, cần có một sự thúc đẩy toàn diện, dưới dạng một bộ qui tắc đầu tư đa phương với những quyền hạn và nghĩa vụ chung, chắc chắn sẽ cải thiện đáng kể cách chơi hiện nay.

 

4. Đôi nét về FDI 

FDI là tư viết tắt trong tiếng anh của “Đầu tư trực tiếp nước ngoài: (Foreign Direct Investmen – FDI).

FDI là một trong các hình thức đầu tư quốc tế mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế rất lớn. Mục đích hàng đầu của FDI là mang lại lợi nhuận cho chủ đầu tư. Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) – Đây là hoạt động đầu tư dài hạn, trong đó chủ sỡ hữu vốn trực tiếp quản lí và điều hành hoạt động sử dụng vốn.

Theo luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam, đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) có thể được hiểu như là việc các tổ chức, các cá nhân trực tiếp nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hay bất cứ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác với bên Việt Nam hoặc tự mình tổ chức các hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam.

Dưới góc độ kinh tế có thể hiểu đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) là hình thức di chuyển vốn quốc tế trong đó người sở hữu đồng thời là người trực tiếp tham gia quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn đầu tư.Về thực chất, đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) là sự đầu tư của các công ty (cá nhân) nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó.

 

5. Thương mại là gì? Đặc điểm của hoạt động thương mại 

Về thương mại hay còn gọi là hoạt động thương mại có thể xeat trên hai phương diện:

Theo nghĩa rộng, hoạt động thương mại là mọi hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, đồng nghĩa với hoạt động kinh doanh. “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi“ theo quy định của Luạt doạnh nghiệp. Hoạt động kinh doanh thực hiện trong nhiều lĩnh vực sản xuất, lưu thông hàng hóa và dịch vụ.

=> Như vậy, với nghĩa này, hoạt động thương mại bao gồm không chỉ các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ mà còn là các hoạt động đầu tư cho sản xuất dưới các hình thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, được điều chỉnh bằng Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp 2005  Luật Kinh doanh bất động sản , Luật Chứng khoán  và các Luật chuyên ngành khác…

Theo nghĩa hẹp, cụ thể là theo Luật thương mại hiện hành, “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác“.

=> Như vậy, hoạt động thương mại được định nghĩa theo Luật thương mại chỉ tập trung vào các hoạt động kinh doanh trong 2 khâu lưu thông và dịch vụ, không bao hàm khâu đầu tư cho sản xuất.

Theo đó: Hai lĩnh vực chủ yếu của hoạt động thương mại là thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ:

– Mua bán hàng hoá (Thương mại hàng hóa) là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận.

– Cung ứng dịch vụ (Thương mại dịch vụ) là hoạt động thương mại, theo đó một bên (gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.

Hoạt động thương mại có những đặc điểm dưới đây: 

Về chủ thể: Hoạt động thương mại là quan hệ giữa các thương nhân hoặc ít nhất một bên là thương nhân, người thực hiện các hoạt động kinh doanh thương mại có tính chất nghề nghiệp.

Theo đó: Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.

Thương nhân, đây là khái niệm dùng để chỉ những chủ thể thực hiện hoạt động thương mại gồm tổ chức kinh tế được thành lập một cách hợp pháp, cá nhân họat động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có thực hiện việc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Trong đó, tổ chức kinh tế được hiểu là những tổ chức mà được thành lập hợp pháp theo quy định của pháp luật, thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh thu lợi nhuận, thường được thể hiện thông các hình thái như doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã…

Việc khẳng định một trong các bên thực hiện hoạt động thương mại là thương nhân là bởi, thương nhân là chủ thể được quyền hoạt động thương mại dưới tất cả những hình thức, phương thức mà pháp luật không cấm, trên các lĩnh vực, ngành nghề theo quy định của pháp luật.

Luật thương mại hiện hành có quy định cụ thể về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng thì có xác định là áp dụng đối với thương nhân hoạt động thương mại trên lãnh thổ Việt Nam và ngoài lãnh thổ Việt Nam cũng như các tổ chức, cá nhân hoạt động thương mại khác mà không được xác định là thương nhân.

Ngoài ra, trong quy định của Luật thương mại hiện hành cũng quy đinh về một trong các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại cũng xác định về nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động thương mại. Do vậy, có thể khẳng định một bên trong hoạt động thương mại được xác định là thương nhân. 

Bên còn lại trong hoạt động thương mại có thể được xác định là thương nhân, nhưng cũng có thể được xác định không phải là thương nhân như cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh được điều chỉnh bởi quy định của pahsp luật, cụ thể là Nghị định 39/2007/NĐ-CP. Ví dụ như người buôn bán vặt, buôn bán quà vặt, buôn chuyến…

Ngoài ra, tham gia vào các hoạt động thương mại còn có các cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh (Không phải là thương nhân theo Luật thương mại)

Về mục đích của người thực hiện hoạt động thương mại chính là lợi nhuận

Về nội dung của hoạt động thương mại: Nội dung gồm 2 nhóm hoạt động cơ bản là mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ (thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ). Ngoài ra, các hình thức đầu tư nhằm tìm kiếm lợi nhuận cũng là những hoạt động thương mại.

 

Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng!

Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).