NHỮNG KẾT QUẢ VÀ HẠN CHẾ TRONG VIỆC THỰC THI LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 1997
Ngày 10 tháng 5 năm 1997, tại Kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá IX, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Thương mại Việt Nam (có hiệu lực từ ngày 01/ 01/1998). Đây là đạo Luật Thương mại đầu tiên, là văn bản quan trọng ghi nhận một giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Để từng bước đưa các quy định của Luật Thương mại vào cuộc sống, trong giai đoạn 1998-2002, Chính phủ đã ban hành 14 nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại. Trên cơ sở các nghị định, các bộ, ngành đã ban hành hàng chục thông tư và các văn bản quy phạm pháp luật khác để thực hiện Luật.
Qua 7 năm thực hiện Luật Thương mại cùng với các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện, chúng ta đã thu được nhiều kết quả trên lĩnh vực hoạt động thương mại, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế trong nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
I. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1. Thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động thương mại trong thời kỳ đổi mới
Trong những năm đầu đổi mới, các chính sách của Đảng và Nhà nước chưa được thể chế hoá thành những quy phạm pháp luật. Đó là các chính sách đối với thương nhân, các thành phần kinh tế, các chính sách về mặt hàng, dịch vụ, chính sách mở rộng giao lưu thương mại với nước ngoài… Các chính sách đó của Đảng và Nhà nước đã được thể chế hoá trong Luật Thương mại năm 1997, cụ thể là:
– Công nhận quyền bình đẳng trước pháp luật của các tổ chức, cá nhân kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Các chủ thể được tham gia bình đẳng trước pháp luật vào các hoạt động thương mại.
– Thể hiện xu hướng mở rộng quyền kinh doanh thương mại, thúc đẩy hoạt động thương mại trên mọi lĩnh vực mà Nhà nước không cấm. Điều 6 Luật Thương mại năm 1997 quy định: “cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được hoạt động thương mại trong các lĩnh vực, tại các địa bàn mà pháp luật không cấm”.
– Luật Thương mại năm 1997 không chỉ quy định các hoạt động thương mại của thương nhân Việt Nam mà còn quy định về quan hệ thương mại nước ngoài, tạo thuận lợi cho sự giao lưu hàng hoá trong nước với nước ngoài. Điều này đã phần nào làm cho pháp luật thương mại Việt Nam phù hợp với pháp luật và tập quán thương mại quốc tế, tạo cơ sở pháp lý để xử lý các quan hệ kinh tế, thương mại trong đàm phán song phương và đa phương với các nước, các tổ chức thương mại khu vực và thế giới.
.
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi: 1900.0191
2. Góp phần hoàn thiện một bước pháp luật thương mại Việt Nam, các hoạt động thương mại được điều chỉnh bằng các quy phạm có giá trị pháp lý cao
Trước khi Luật Thương mại năm 1997 được ban hành, các hoạt động thương mại ở nước ta được quy định ở một số văn bản quy phạm của Chính phủ và các bộ, ngành. Sự thiếu vắng một văn bản có giá trị pháp lý cao đã hạn chế sự phát triển các hoạt động thương mại. Luật Thương mại năm 1997 đã lần đầu tiên quy định một cách có hệ thống về các hoạt động thương mại hàng hoá như mua bán hàng hoá, đại diện, môi giới, uỷ thác, đại lý, gia công, đấu giá, đấu thầu; các dịch vụ thương mại như giao nhận hàng hoá, giám định hàng hoá và các hoạt động xúc tiến thương mại như khuyến mại, quảng cáo… đánh dấu việc hoàn thiện một bước pháp luật thương mại Việt Nam, thực hiện một bước quan trọng pháp điển hoá pháp luật về thương mại.
3. Tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho hoạt động thương mại của thương nhân
Luật Thương mại năm 1997 đã tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng hơn. Trên cơ sở đó, một số nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật đã góp phần quan trọng cho việc phát triển nền thương mại Việt Nam. Trong số đó, có thể kể đến một số văn bản sau đây:
– Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài (Ngày 2/8/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/2001/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57). Các nghị định này cùng với các văn bản hướng dẫn đã tạo ra một bước đột phá trong hoạt động xuất, nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia ngoại thương, đặc biệt là xuất khẩu, thúc đẩy sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong những năm qua. Bên cạnh đó, các phương thức mua bán phổ biến trong thương mại quốc tế như uỷ thác, đại lý, tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu… cũng đã được pháp quy hoá trong Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành, góp phần đa dạng hoá các loại hình hoạt động thương mại và tăng kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta.
– Nghị định số 11/1999/NĐ-CP ngày 03/3/1999 của Chính phủ quy định về hàng hoá cấm lưu thông, dịch vụ thương mại cấm thực hiện; hàng hoá, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện. Đây là văn bản quan trọng nhằm định hướng cho các hoạt động thương mại và cụ thể hoá nguyên tắc thương nhân được kinh doanh những mặt hàng mà pháp luật không cấm.
– Nghị định số 20/1999/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ về kinh doanh dịch vụ giám định hàng hóa. Nghị định hướng dẫn chi tiết những quy định trong Luật Thương mại, đặc biệt là phân biệt giữa kiểm tra bắt buộc và giám định theo trưng cầu của Nhà nước đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu với giám định theo yêu cầu của các bên trong hợp đồng.
– Nghị định số 32/1999/NĐ-CP ngày 5 tháng 5 năm 1999 của Chính phủ về khuyến mại, quảng cáo thương mại và hội chợ, triển lãm thương mại. Nghị định này tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các hình thức xúc tiến thương mại phát triển, góp phần thúc đẩy các hoạt động mua bán hàng hoá trong nước cũng như giao lưu thương mại quốc tế.
– Nghị định số 48/1999/NĐ-CP ngày 8 tháng 7 năm 1999 của Chính phủ về Văn phòng đại diện, Chi nhánh của thương nhân và của doanh nghiệp du lịch Việt Nam ở trong nước, ở nước ngoài; Nghị định số 45/2000/NĐ-CP ngày 6 tháng 9 năm 2000 của Chính phủ về Văn phòng đại diện, Chi nhánh của thương nhân nước ngoài và của Doanh nghiệp du lịch nước ngoài tại Việt Nam. Các văn bản này là cơ sở pháp lý quan trọng để thương nhân Việt Nam mở rộng hoạt động thương mại ra nước ngoài và cũng là cơ sở pháp lý tạo thuận lợi thu hút các hoạt động thương mại – du lịch của thương nhân nước ngoài vào Việt Nam.
4. Tạo cơ sở pháp lý góp phần phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta với các nước trên thế giới
Luật Thương mại cùng các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành không những tạo điều kiện mở rộng các hoạt động thương mại trong nước, mà còn mở rộng quyền kinh doanh của các chủ thể Việt Nam trong các hoạt động thương mại với nước ngoài, do đó đã góp phần từng bước thực hiện tự do hoá thương mại, tạo cơ sở ban đầu cho Việt Nam tham gia các tổ chức thương mại khu vực và thế giới.
Mặc dù có những chế định chưa đồng nhất với các chế định thương mại quốc tế và của các nước, song Luật Thương mại, tại Điều 4 quy định nguyên tắc ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết khi có quy định khác nhau giữa điều ước quốc tế và Luật Thương mại. Vì vậy, về nguyên tắc, sẽ không có mẫu thuẫn cơ bản trong việc áp dụng Luật Thương mại năm 1997 với việc thực hiện các chế định quốc tế. Do đó, Luật Thương mại đã thể hiện xu hướng chung của thương mại quốc tế là theo “luật chơi chung”. Điều đó tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho phát triển quan hệ thương mại giữa nước ta với các nước trên thế giới.
Như vậy, sự ra đời của Luật Thương mại năm 1997 là một thành công lớn trong quá trình phát triển kinh tế theo đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước. Luật Thương mại cùng với các văn bản quy định chi tiết thi hành đã tạo ra một cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động thương mại trong nước, đồng thời góp phần xây dựng môi trường pháp lý ổn định, thông thoáng hơn, thúc đẩy hoạt động thương mại và giao lưu kinh tế trong nước và với nước ngoài. Luật Thương mại đã góp phần rất đáng kể đối với phát triển kinh tế đất nước và thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam với các nước trên thế giới.
II. NHỮNG HẠN CHẾ
1. Một số quy định trong Luật Thương mại mang nặng tính chính sách và quản lý hành chính, chưa thực sự là “luật cho các doanh nghiệp”
1.1. Về chính sách thương mại
Luật Thương mại đã dành hẳn 7 điều (từ Điều 10 đến Điều 16) để quy định về chính sách thương mại, bao gồm chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước, đối với hợp tác xã, đối với thương nhân thuộc các thành phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân, chính sách thương mại đối với nông thôn, đối với miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, chính sách lưu thông hàng hoá và dịch vụ thương mại và chính sách ngoại thương. Các quy định này hầu như không có tính bắt buộc về mặt pháp lý, vì chỉ là những quy định chung mang tính định hướng trong quản lý nhà nước, không có chỉ dẫn cụ thể nên các cơ quan thực thi không có đủ căn cứ để thi hành.
1.2. Về quản lý nhà nước
Luật Thương mại dành một chương để quy định quản lý nhà nước về thương mại, nhưng một số quy định chỉ nhắc lại những quy định đã có. Chẳng hạn Luật quy định nội dung quản lý nhà nước về thương mại, cơ quan quản lý nhà nước về thương mại… trong khi chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này đã được quy định trong các văn bản về tổ chức các cơ quan quản lý nhà nước.
Cũng trong chương này, Luật Thương mại đưa ra các quy định về thanh tra chuyên ngành thương mại (Điều 249, Điều 250) với 4 nội dung: kiểm tra việc đăng ký kinh doanh, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về thương mại, phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật thương mại, kiến nghị các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật về thương mại. Song trên thực tế, chế định thanh tra chuyên ngành thương mại từ khi ban hành đã không phát huy được tác dụng và không đi vào cuộc sống.
Đăng ký kinh doanh là một biện pháp quan trọng để Nhà nước quản lý hoạt động kinh doanh nói chung. Trong phần quy định về thương nhân, Luật Thương mại năm 1997 (từ Điều 19 đến Điều 23) đã quy định về việc đăng ký kinh doanh, và theo đó, đăng ký kinh doanh là điều kiện để trở thành thương nhân. Luật Thương mại điều chỉnh các hành vi thương mại, nên đăng ký kinh doanh ở đây được hiểu là “đăng ký kinh doanh thương mại”. Nhưng trên thực tế, đây là việc đăng ký kinh doanh thông thường, tức là được quy định cụ thể tại các văn bản pháp luật khác.
2.Luật Thương mại xác định chưa đầy đủ và phù hợp về đối tượng, phạm vi điều chỉnh
Phạm vi và đối tượng điều chỉnhcủa Luật Thương mại đã bộc lộ những hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện, nhất là khi Việt Nam tham gia đàm phán song phương và đa phương về thương mại.
Đối tượng điều chỉnh theo Luật Thương mại bao gồm 14 hành vi thương mại. Việc chỉ đưa ra 14 hành vi thương mại mà không xác lập đầy đủ và hoàn chỉnh những tiêu chí về đối tượng điều chỉnh làm cho phạm vi điều chỉnh của Luật bị hạn hẹp, không đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Phạm vi điều chỉnh hạn hẹp của Luật Thương mại thể hiện ở hai khía cạnh:
– Thứ nhất, về khái niệm “thương mại”
Một trong những vướng mắc lớn nhất hiện nay là khái niệm thương mại được hiểu theo quan điểm của Luật Thương mại Việt Nam là thương mại theo nghĩa hẹp, trong khi đó, các chế định quốc tế, và pháp luật các nước hiểu thương mại theo nghĩa rộng.
Theo các chế định của WTO và theo Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ thì “thương mại” bao gồm thương mại hàng hoá; thương mại dịch vụ; thương mại trong đầu tư và thương mại liên quan đến sở hữu trí tuệ. Năm 1985, Uỷ ban về Luật Thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) đã giải thích thuật ngữ “thương mại”, theo đó “thương mại” được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm bất kỳ giao dịch thương mại nào để cung ứng hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại; sản xuất; cho thuê; xây dựng; tư vấn; thiết kế kỹ thuật; li-xăng (licensing); đầu tư; tài chính; ngân hàng; bảo hiểm; các thoả thuận về khai thác; liên doanh hoặc các hình thức hợp tác kinh doanh hay hợp tác công nghiệp khác; vận chuyển hàng hoá hoặc hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt hoặc đường bộ.
Hiện nay, pháp luật thương mại của nhiều nước cũng quan niệm thương mại theo nghĩa rộng như quan niệm của WTO. Trong khi đó, Luật Thương mại của Việt Nam chỉ quan niệm thương mại theo nghĩa hẹp. Ở nước ta, thuật ngữ “thương mại” được sử dụng khá rộng rãi trong đời sống kinh tế xã hội và trong nhiều văn bản pháp quy, song không có một định nghĩa nào tương đối hoàn chỉnh về “thương mại”. Năm 1990, Quốc hội thông qua hai luật rất quan trọng là Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Hai luật này đã đưa ra một khái niệm mới trong khoa học pháp lý Việt Nam có liên quan nhiều đến việc áp dụng pháp luật thương mại trong hoạt động kinh tế đó là khái niệm “kinh doanh”. Khái niệm “kinh doanh” cũng được nhắc lại trong Luật Doanh nghiệp năm 1999, theo đó, “Kinh doanh” là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi (khoản 2 Điều 3). Khái niệm này có thể coi là khá tương đồng với khái niệm thương mại theo nghĩa rộng được sử dụng phổ biến trên thế giới hiện nay, và khái niệm này cũng đã được giải thích, liệt kê cụ thể trong luật mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của UNCITRAL.
Mặc dù Luật Thương mại không đưa ra định nghĩa “thương mại”, song từ định nghĩa về hành vi thương mại, và hoạt động thương mại thì Luật Thương mại năm 1997 quan niệm “thương mại” không giống với quan niệm “kinh doanh” mà thực chất chỉ là “thương mại hàng hoá”. Hơn nữa, “thương mại hàng hoá” chủ yếu chỉ được hiểu là mua bán hàng hoá và một số dịch vụ liên quan đến việc mua bán hàng hoá, được thể hiện trong 14 hành vi thương mại, bao gồm: mua bán hàng hoá; đại diện cho thương nhân; môi giới thương mại; uỷ thác mua bán hàng hoá; đại lý mua bán hàng hoá; gia công trong thương mại; đấu giá hàng hoá; đấu thầu hàng hoá; dịch vụ giao nhận hàng hoá; dịch vụ giám định hàng hoá; khuyến mại; quảng cáo thương mại; trưng bày giới thiệu hàng hoá; hội chợ, triển lãm thương mại. Như vậy, theo Luật Thương mại thì khái niệm thương mại được hiểu theo nghĩa hẹp chỉ gồm 3 nhóm hành vi. Thứ nhất là mua bán hàng hoá chỉ đối với hàng hoá là máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, mua bán. Thứ hai là chỉ các dịch vụ gắn liền với mua bán hàng hoá như môi giới thương mại, uỷ thác, đại lý mua bán hàng hoá, gia công trong thương mại và các dịch vụ giao nhận, giám định hàng hoá. Thứ ba là các hoạt động xúc tiến thương mại hàng hoá.
– Thứ hai, về khái niệm “hàng hoá”
Phạm vi điều chỉnh hạn hẹp theo Luật Thương mại năm 1997 còn do sự chi phối bởi quan niệm “hàng hoá” theo nghĩa hẹp.
Thuật ngữ “hàng hoá” được sử dụng rất phổ biến trong pháp luật thương mại của các nước, cũng như trong các điều ước quốc tế về thương mại. Theo đó, hàng hoá được hiểu theo nghĩa rộng, dựa trên hai thuộc tính là “có thể đưa vào lưu thông” và có “tính thương mại”. Nhìn chung, hàng hoá thường được hiểu là tất cả các đối tượng được đem trao đổi, mua bán trên thị trường.
Khác với các nước trên thế giới, thuật ngữ “hàng hoá” theo Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 được hiểu theo nghĩa rất hạn hẹp. Khoản 3 Điều 5 Luật Thương mại quy định: hàng hoá gồm “máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, mua, bán”. Như vậy, theo cách tiếp cận này thì giá trị quyền sử dụng đất, các quyền về tài sản, cổ phiếu, trái phiếu… không được coi là hàng hoá theo Luật Thương mại năm 1997.
Như vậy, khái niệm “thương mại” và khái niệm “hàng hoá” được quan niệm theo nghĩa hẹp đã làm cho phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại năm 1997 rất hạn chế. Có thể nói, phạm vi điều chỉnh theo nghĩa hẹp của Luật Thương mại năm 1997 đã chi phối đến việc xác định số lượng và nội dung các chế định pháp lý cơ bản trong giao dịch thương mại và tạo ra sự khác biệt giữa pháp luật thương mại Việt Nam so với pháp luật thương mại quốc tế.
3. Hạn chế trong quy định về chủ thể của hành vi thương mại
Luật Thương mại xác định chủ thể của các quan hệ thương mại là thương nhân, nhưng không xác định hết các chủ thể mà trên thực tế có thể coi là những thương nhân. Do đó, các quy định về thương nhân trong Luật Thương mại năm 1997 đã thể hiện những hạn chế trong quá trình thực thi pháp luật về thương mại.
Thứ nhất, Luật Thương mại không xác định rõ tính chất của thương nhân nên không phân biệt rõ trên thị trường ai là thương nhân, ai không phải là thương nhân
Luật Thương mại (Điều 17) mới chỉ quy định điều kiện để trở thành thương nhân, là có đủ điều kiện kinh doanh thương mại, có yêu cầu hoạt động thương mại… chứ không quy định tính chất của thương nhân. Mặc dù có thể suy diễn từ Điều 17 rằng đăng ký kinh doanh là một điều kiện bắt buộc để trở thành thương nhân, nhưng Luật Thương mại không xác định rõ những điều kiện khác để đặc định một thương nhân, tức là xác định rõ ràng các tính chất của thương nhân. Căn cứ vào các quy định của Luật thì cũng khó xác định điều kiện này. Tại Điều 5 Luật Thương mại về giải thích từ ngữ, quy định “thương nhân gồm các cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác và hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên”. Tính “độc lập” và “thường xuyên”trong hoạt động thương mại là hai điều kiện quan trọng để xác định thương nhân. Tuy nhiên, Luật Thương mại và các văn bản quy định chi tiết thi hành không quy định cụ thể những vấn đề này.
Thứ hai, tổ hợp tác không thể trở thành thương nhân theo pháp luật hiện hành
Luật Thương mại quy định một trong những chủ thể có thể trở thành thương nhân, tức là trở thành chủ thể của quan hệ thương mại là tổ hợp tác. Điều 17 Luật Thương mại quy định “cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đủ điều kiện để kinh doanh thương mại theo quy định, nếu có yêu cầu hoạt động thương mại thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và trở thành thương nhân”. Như vậy, các chủ thể phải thực hiện đăng ký kinh doanh thì mới trở thành thương nhân. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành không quy định về đăng ký kinh doanh đối với tổ hợp tác (Luật Hợp tác xã chỉ quy định đăng ký kinh doanh đối với hợp tác xã, theo Luật này, tổ hợp tác là đơn vị cấp “thấp” hơn hợp tác xã mà không phải là hợp tác xã). Do đó, tổ hợp tác trong thực tế không thể trở thành thương nhân.
4. Luật Thương mại chưa tạo được cơ sở pháp lý đầy đủ cho các giao dịch thương mại
4.1. Trong thực tế nhiều giao dịch mang tính thương mại nhưng không được Luật Thương mại điều chỉnh
Do phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại hẹp nên hiện nay trong các giao dịch hoàn toàn mang tính thương mại, nhưng các bên thường chọn Pháp lệnh hợp đồng kinh tế làm cơ sở pháp lý chứ không phải Luật Thương mại để tránh trường hợp các bên có thể không được coi là chủ thể theo quy định của Luật Thương mại hoặc khi các bên là chủ thể theo Luật nhưng giao kết hợp đồng về đối tượng nằm ngoài đối tượng điều chỉnh của Luật. Ví dụ như các giao dịch về cung ứng dịch vụ nằm ngoài các dịch vụ đã được quy định trong Luật, về thuê và thuê mua tài sản, kể cả sản nghiệp thương mại,… thì không thể áp dụng Luật Thương mại.
4.2. Một số quy định liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hoá chưa hợp lý với thực tiễn thương mại
Thứ nhất, về các điều khoản chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá
Pháp luật của các nước trên thế giới đều quy định những nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá. Mặc dù các nước không quy định hoàn toàn giống nhau, song đa số pháp luật thương mại của các nước và pháp luật thương mại quốc tế như Công ước Viên năm 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế đều xác định những điều khoản chủ yếu của hợp đồng là 3 điều khoản: tên hàng, số lượng, giá cả. Ngược lại, ở Việt Nam lại có quan điểm cho rằng trong hợp đồng mua bán hàng hoá “càng nhiều điều khoản chủ yếu thì càng dễ thực hiện” và khi có tranh chấp sẽ có cơ sở giải quyết. Luật Thương mại quy định các điều khoản chủ yếu của hợp đồng là các điều khoản về tên hàng, số lượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời hạn giao hàng. Điều này có thể phù hợp với thời kỳ Việt Nam mới phát triển kinh tế thị trường và mở rộng hội nhập, nhưng nay cần phải thay đổi để tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch thương mại và để tránh các tranh chấp về hiệu lực của hợp đồng.
Thứ hai, về giải quyết tranh chấp trong hợp đồng mua bán hàng hoá
Hiện nay các chế tài về vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá đang được tồn tại trong các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. So với Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, Luật Thương mại đã bổ sung thêm hai hình thức chế tài nữa là: buộc thực hiện hợp đồng và huỷ hợp đồng. Sự bổ sung này là cần thiết, tuy nhiên, do không có sự thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật nên thực tế phát sinh những vướng mắc trong giải quyết tranh chấp.
Về chế tài phạt vi phạm hợp đồng, đây là một loại chế tài được áp dụng khi một bên vi phạm hợp đồng, nhưng không phải mọi loại vi phạm đều có thể áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng. Ví dụ, giao hàng kém phẩm chất, không đúng chủng loại, giao thiếu thì phải áp dụng các chế tài khác như bồi thường thiệt hại, thực hiện thực sự. Mức phạt vi phạm hợp đồng phụ thuộc vào hai yếu tố chính:
– Loại vi phạm (như giao hàng chậm, không giao hàng, không sẵn sàng có hàng để giao, chậm thanh toán…)
– Mức độ thiệt hại gây ra (khi ký hợp đồng các bên đều không thể xác định trước được, thậm chí có trường hợp vi phạm hợp đồng nhưng chưa hẳn đã gây ra thiệt hại thực tế).
Bởi vậy, phạt vi phạm về tính chất là một chế tài mang tính răn đe, phòng ngừa, về nội dung và mức độ phạt là một chế tài chưa được xác định. Tính “đương nhiên” của chế tài phạt trong Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế là không lôgic, thiếu khoa học, vì như vậy khi có sự vi phạm, người ta có thể tuỳ tiện đòi phạt 2%, 3%, 5-7%,… mà không có căn cứ nào. Do đó cần có chế tài bồi thường thiệt hại. Trong chế tài phạt, các bên thường ước tính mức thiệt hại để quy định trong hợp đồng tỷ lệ tiền phạt. Còn trong các văn bản luật thường chỉ quy định mức phạt tối đa (như 8%, 10%, 12%) vì xuất phát từ luận điểm: đó là mức thiệt hại tối đa do các loại vi phạm hợp đồng như đã nêu trên (chỉ một số loại) gây ra.
Ngoài ra, theo Điều 235 Luật Thương mại năm 1997 quy định về chế tài huỷ hợp đồng thì: “bên có quyền lợi bị vi phạm tuyên bố huỷ hợp đồng nếu việc vi phạm của bên kia là điều kiện để huỷ hợp đồng mà các bên đã thoả thuận”. Trên thực tế, chế tài này hầu như không được áp dụng bởi Luật Thương mại năm 1997 chỉ dừng lại ở những quy định rất chung chung, không có cơ sở pháp lý để thực hiện và không phù hợp với pháp luật và tập quán thương mại quốc tế.
5. Một số quy định của Luật Thương mại và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thực hiện không được thực thi trong thực tiễn
Một vấn đề liên quan đến việc thực thi Luật Thương mại cũng đang đặt ra là hiện nay xảy ra tình trạng có văn bản quy phạm pháp luật quy định những vấn đề trái với các quy định của Luật Thương mại dù được ban hành sau và có giá trị pháp lý thấp hơn nhưng vẫn được thi hành, nhất là liên quan đến quản lý nhà nước về thương mại. Ví dụ như:
Về vấn đề quản lý nhà nước trong lĩnh vực quảng cáo
Điều 45 Luật Thương mại năm 1997 quy định các hành vi thương mại, trong đó có “quảng cáo thương mại” (Khoản 12). Điều 246 Luật Thương mại năm 1997 khẳng định “Bộ Thương mại chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà nước về thương mại”. Trong khi đó, Khoản 2 Điều 29 Pháp lệnh về Quảng cáo năm 2001 quy định: “Bộ Văn hoá -Thông tin chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà nước về quảng cáo”. Như vậy, một văn bản dưới luật đã đưa ra các quy định trái luật và do đó gây ra sự chồng lấn về trách nhiệm liên quan đến “quảng cáo thương mại” giữa các cơ quan quản lý nhà nước.
Về việc thành lập và hoạt động của văn phòng đại diện, chi nhánh của tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh quảng cáo tại Việt Nam.
Khoản 1 Điều 4 Nghị định số 45/2000/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Thương mại quy định: “Bộ Thương mại có trách nhiệm cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi Giấy phép thành lập Chi nhánh hoạt động trong lĩnh vực thương mại”. Song Khoản 2 Điều 25 Nghị định số 24/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về Quảng cáo quy định: “Bộ Văn hoá – Thông tin cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi Giấy phép thành lập Chi nhánh hoạt động trong lĩnh vực Quảng cáo”. Như vậy, vô hình chung chúng ta đã tách quảng cáo ra khỏi hoạt động thương mại và với những quy định này, thương nhân nước ngoài vào làm ăn tại Việt Nam trong lĩnh vực quảng cáo thương mại có thể xin hoặc phải xin giấy phép thành lập tại hai cơ quan khác nhau.
SỰ CẦN THIẾT SỬA ĐỔI LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 1997
VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC CHỈ ĐẠO
I. SỰ CẦN THIẾT SỬA ĐỔI LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 1997
Qua hơn 7 năm thực hiện, Luật Thương mại năm 1997 đã có những tác động tích cực đến đời sống kinh tế – xã hội của Việt Nam, từng bước đưa hoạt động thương mại vào nề nếp, khuyến khích và phát triển hoạt động thương mại hợp pháp, ngăn chặn và xử lý hành vi bất hợp pháp gây ảnh hưởng xấu đến môi trường thương mại.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua, Luật Thương mại năm 1997 đã bộc lộ những hạn chế nhất định, đòi hỏi phải sửa đổi vì nhiều lý do, trong đó có thể kể đến các lý do cơ bản sau đây:
Một là: Hoạt động thương mại tại Việt Nam trong những năm qua đã phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, nhiều hoạt động trên thị trường có bản chất thương mại nhưng lại chưa được coi là hoạt động thương mại (ví dụ như các hoạt động cung ứng dịch vụ) do Luật Thương mại năm 1997 có phạm vi điều chỉnh hẹp, chỉ xác định hoạt động thương mại bao gồm 14 hành vi thương mại. Nhiều hoạt động thương mại mới xuất hiện hoặc các doanh nghiệp đang có nhu cầu thực hiện nhưng hiện chưa có quy định pháp luật điều chỉnh cụ thể, trong khi những chế định chung của Luật Thương mại năm 1997 không áp dụng được (ví dụ hoạt động nhượng quyền thương mại). Một số hoạt động thương mại dù đã có văn bản quy phạm pháp luật quy định nhưng nội dung còn sơ sài, hiệu lực pháp lý thấp (như đấu giá hàng hóa)…. Thực tiễn hoạt động thương mại đa dạng và phong phú, từng bước tiếp cận với trình độ quốc tế đã đặt ra yêu cầu cần sửa đổi, bổ sung Luật Thương mại năm 1997.
Hai là: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Nhiều hiệp định song phương và điều ước quốc tế đa phương đã và đang được ký kết hoặc gia nhập, trong đó đặc biệt là Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kỳ (BTA). Hiện nay, Việt Nam cũng đang thực thi các cam kết trong ASEAN và đẩy mạnh việc đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với mục tiêu sớm trở thành thành viên của tổ chức này. Do đó, việc thu hẹp sự không tương thích giữa pháp luật thương mại của Việt Nam và pháp luật thương mại quốc tế là một ưu tiên hàng đầu. Một số nội dung của Luật Thương mại năm 1997 chưa phù hợp, không thể hiện kịp thời các quy định của BTA và WTO, thiếu cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các cam kết trong BTA nói riêng và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung (ví dụ còn một số quy định mang tính phân biệt đối xử chưa hợp lý, thiếu quy định liên quan đến một số vấn đề quan trọng như quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, xuất xứ hàng hóa, quá cảnh hàng hóa).
Bên cạnh đó, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hoạt động mua bán hàng hoá, trong đó có mua bán hàng hóa quốc tế, theo quy định của Luật Thương mại năm 1997 cũng chưa tương thích với điều ước và tập quán thương mại quốc tế đã được thừa nhận rộng rãi trên thế giới như Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hoá quốc tế, tập quán theo Incoterms, Unidroit… (ví dụ một số nghĩa vụ của bên bán hàng, bên mua hàng, những quy định về chuyển rủi ro). Trước những bất cập đó, việc sửa đổi Luật Thương mại năm 1997 đã trở nên rất cấp thiết để tạo điều kiện cho phát triển quan hệ ngoại thương của Việt Nam.
Ba là: Từ khi có Luật Thương mại năm 1997 tới nay, nhiều văn bản quy phạm pháp luật mới đã được ban hành hoặc đã và đang được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của hoạt động thương mại. Do đó, nhiều chế định của Luật Thương mại năm 1997 đã trở nên không phù hợp (ví dụ chồng chéo với Luật Doanh nghiệp về địa vị pháp lý của thương nhân, không tương thích với Pháp lệnh Trọng tài Thương mại về khái niệm hoạt động thương mại …).
Ngoài ra, việc soạn thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)- đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005- với mục tiêu xây dựng những quy định chung về hợp đồng cũng đặt ra yêu cầu cần sửa đ���i Luật Thương mại năm 1997 cho phù hợp, theo hướng bỏ những quy định chung về hợp đồng liên quan đến chào hàng, chấp nhận chào hàng, nội dung chủ yếu của hợp đồng, sửa đổi, bổ sung hợp đồng…Luật Thương mại chỉ cần quy định những nội dung mang tính chuyên ngành về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại, trong đó chủ yếu là hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng cung ứng dịch vụ.
Bốn là: Luật Thương mại năm 1997 có những nội dung không còn đáp ứng được quá trình vận động của thực tiễn thương mại, ví dụ như các quy định liên quan đến chính sách thương mại. Phải khẳng định rằng, việc có những quy định về chính sách thương mại trong Luật Thương mại năm 1997 là một bước đột phá trong việc chuyển hướng các chính sách thương mại của Việt Nam khi nền kinh tế của chúng ta chuyển sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên, việc quy định những chính sách thương mại trong Luật cũng làm cho chính sách trở nên cứng nhắc, khó có thể điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của từng thời kỳ.
Vì những lý do trên, Luật Thương mại năm 1997 cần được sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao tính khả thi của đạo luật, tạo điều kiện cho các hoạt động thương mại phát triển.
II. NHỮNG NGUYÊN TẮC CHỈ ĐẠO
XÂY DỰNG LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005
Quá trình xây dựng Luật Thương mại năm 2005 đã quán triệt sâu sắc những nguyên tắc chỉ đạo sau đây:
1. Bảo đảm thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó xây dựng chính sách, pháp Luật Thương mại tạo điều kiện phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ là vấn đề trọng tâm
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ “phát triển thương mại, cả nội thương và ngoại thương bảo đảm hàng hoá lưu thông thông suốt trong thị trường nội địa và giao lưu buôn bán quốc tế”, đồng thời “đa dạng hoá các ngành dịch vụ, mở rộng thị trường tiêu dùng sản phẩm dịch vụ, đáp ứng tốt nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống xã hội”. Hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ cần được đẩy mạnh theo hướng khuyến khích tối đa hoạt động xuất khẩu, đặc biệt là các hàng hoá, dịch vụ mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh; kiểm soát và bảo hộ hợp lý, có trọng điểm, có điều kiện và có thời hạn phù hợp tiến trình hội nhập; đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào thị trường hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam.
2. Tôn trọng và phát huy quyền tự do hoạt động thương mại
Quyền tự do hoạt động thương mại đã được khẳng định tại Điều 57 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Việc khẳng định rõ và bảo đảm quyền tự do hoạt động thương mại là động lực chủ yếu khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia tích cực vào hoạt động thương mại, khơi dậy mọi nguồn lực, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
3. Phù hợp với các nguyên tắc của Bộ luật dân sự, trong đó nguyên tắc tôn trọng tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận được xác định là nền tảng của hoạt động thương mại
Tôn trọng quyền tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận là một trong những nguyên tắc cơ bản, quan trọng nhất của dân luật. Nguyên tắc này đã được Hiến pháp và Bộ luật dân sự khẳng định. Do đó, Luật Thương mại phải coi nguyên tắc tôn trọng tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận là nguyên tắc xuyên suốt.
Sự tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận trong hoạt động thương mại được bảo đảm sẽ nâng cao tính chủ động cho các thương nhân tham gia hoạt động thương mại, thúc đẩy sự linh hoạt và tạo điều kiện cho các thương nhân phát huy mọi tiềm năng của mình trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
4. Phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành về thương mại, trong đó Luật Thương mại điều chỉnh những nguyên tắc, định chế chung của thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ
Hệ thống pháp luật thương mại Việt Nam bao gồm nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, có phạm vi áp dụng chung hoặc chuyên ngành. Trong đó, Luật Thương mại là văn bản quy định các nguyên tắc chung cho hoạt động mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, nhưng không được tạo ra sự chồng chéo mà phải phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành để tạo điều kiện cho hoạt động thương mại của thương nhân.
5. Bảo đảm sự phù hợp với các Điều ước quốc tế về thương mại mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập và pháp luật, tập quán thương mại quốc tế
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu “tiếp tục chính sách mở cửa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển, tích cực chuẩn bị các điều kiện về kinh tế, thể chế, cán bộ… để thực hiện thành công quá trình hội nhập”. Nghị quyết cũng khẳng định quan điểm của Đảng là “thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết trong quá trình hội nhập”, “tích cực thực hiện các cam kết đối với các cơ chế hợp tác song phương và đa phương mà nước ta đã tham gia, đặc biệt chú ý tới các cam kết trong khuôn khổ ASEAN (như AFTA, AICO, AIA…), APEC, ASEM; xúc tiến đàm phán gia nhập WTO”.
Các chuẩn mực chung của thương mại quốc tế đang được Việt Nam từng bước áp dụng thông qua quá trình đàm phán, ký kết, gia nhập và thực thi các Điều uớc quốc tế. Vì vậy, việc xây dựng Luật Thương mại tất yếu cũng phải phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, tiếp cận với các nguyên tắc của WTO và các nguyên tắc, chuẩn mực của pháp luật, tập quán thương mại quốc tế, từ đó tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia vào các định chế chung của thế giới trong lĩnh vực thương mại.
6. Bảo đảm tính minh bạch, nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước nhưng không gây cản trở cho hoạt động thương mại hợp pháp
Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của các chủ thể tham gia thị trường nhưng cần thông qua việc xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách, pháp luật tạo ra khung pháp lý rõ ràng, minh bạch điều chỉnh hoạt động thương mại. Do đó, đối với hoạt động thương mại trên lãnh thổ Việt Nam, Luật Thương mại phải là một công cụ hữu hiệu để Nhà nước có thể điều tiết thị trường nhưng không được gây cản trở cho hoạt động thương mại hợp pháp, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của thương nhân, người tiêu dùng và các chủ thể có liên quan khác.
LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005
Luật Thương mại được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 (Luật Thương mại năm 2005). Đạo luật này được ban hành nhằm khắc phục những bất cập của Luật Thương mại năm 1997, đáp ứng những yêu cầu của tình hình phát triển kinh tế – xã hội, cũng như của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong giai đoạn phát triển mới.
Luật Thương mại năm 2005 gồm 9 Chương, 324 Điều, với bố cục cụ thể như sau:
Chương I: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 23);
Chương II: Mua bán hàng hóa (từ Điều 24 đến Điều 73);
Chương III: Cung ứng dịch vụ (từ Điều 74 đến Điều 87);
Chương IV: Xúc tiến thương mại (từ Điều 88 đến Điều 140);
Chương V: Các hoạt động trung gian thương mại (từ Điều 141 đến Điều 177);
Chương VI: Một số hoạt động thương mại cụ thể khác (từ Điều 178 đến Điều 291);
Chương VII: Chế tài trong thương mại và giải quyết tranh chấp trong thương mại (từ Điều 292 đến Điều 319);
Chương VIII: Xử lý vi phạm pháp luật về thương mại (từ Điều 320 đến Điều 322);
Chương IX: Điều khoản thi hành (Điều 323 và Điều 324).
Như vậy, so với Luật Thương mại năm 1997 (bao gồm Lời nói đầu, 6 chương, 264 điều), thì Luật Thương mại năm 2005 không có Lời nói đầu, nhưng có nhiều hơn 3 chương, 60 điều.
Việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại năm 2005, không chỉ điều chỉnh các hoạt động mua bán hàng hóa mà còn điều chỉnh cả các hoạt động cung ứng dịch vụ, đã dẫn tới việc bổ sung một chương để điều chỉnh các hoạt động cung ứng dịch vụ, đó là Chương III – Cung ứng dịch vụ. Chương IV của Luật Thương mại năm 1997 về Thương phiếu không còn tồn tại trong Luật Thương mại năm 2005 nữa, quan hệ này sẽ được điều chỉnh bởi một đạo luật khác. Chương V của Luật Thương mại năm 1997 về Nội dung quản lý nhà nước về thương mại cũng không tồn tại trong Luật Thương mại năm 2005, thay thế vào đó là Chương VIII – Xử lý vi phạm pháp luật về thương mại.
Về thực chất, số lượng điều mới được bổ sung trong Luật Thương mại năm 2005 không dừng ở con số 60, vì không phải tất cả 264 điều của Luật Thương mại năm 1997 đều hiện hữu trong Luật Thương mại năm 2005. Mặc dù vậy, số lượng điều trong Luật Thương mại năm 2005 vẫn tăng lên là do Luật Thương mại năm 2005 đã bổ sung một số chế định mới, như: chế định mua bán hàng hoá qua Sở Giao dịch hàng hoá (Mục 3 Chương II); chế định quá cảnh hàng hóa qua lãnh thổ Việt Nam và dịch vụ quá cảnh hàng hóa (Mục 5 Chương VI); chế định cho thuê hàng hóa (Mục 7 Chương VI); chế định nhượng quyền thương mại (Mục 8 Chương VI)…
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Chương I Luật Thương mại năm 2005 – Những quy định chung – gồm 3 mục, quy định về: phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng; những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại; thương nhân nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt Nam.
So với Chương I Luật Thương mại năm 1997, Chương này có ít hơn một mục. Vì trong Luật Thương mại năm 2005 thương nhân không còn được quy định riêng thành một mục nữa, mà được quy định tại Điều 6.
1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng
Mục này có 9 điều (từ Điều 1 đến Điều 9), bao gồm các quy định về: phạm vi điều chỉnh ; đối tượng áp dụng ; áp dụng Luật Thương mại và pháp luật có liên quan ; áp dụng điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán thương mại quốc tế ; thương nhân ; nghĩa vụ đăng ký kinh doanh của thương nhân; cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động thương mại ; hiệp hội thương mại. Riêng Điều 3 giải thích một số thuật ngữ trong Luật Thương mại năm 2005.
1.1. Phạm vi điều chỉnh
Theo Điều 1, Luật Thương mại năm 2005 điều chỉnh hoạt động thương mại thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoản 1).
Ngoài ra, Luật Thương mại năm 2005 còn điều chỉnh các “hoạt động thương mại thực hiện ngoài lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp các bên thoả thuận chọn áp dụng Luật này hoặc luật nước ngoài, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng Luật này”(khoản 2). Sự bổ sung này mang tính kỹ thuật nhiều hơn là sự thay đổi về mặt chính sách. Nguyên tắc chọn luật áp dụng trong tư pháp quốc tế đã được Việt Nam cũng như các nước trên thế giới thừa nhận và trong quá trình thi hành Luật Thương mại năm 1997, nguyên tắc này vẫn được áp dụng trong các quan hệ thương mại có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, việc khẳng định một cách cụ thể, rõ ràng nguyên tắc này trong phạm vi điều chỉnh của Luật là điều cần thiết.
Khoản 3 quy định Luật Thương mại năm 2005 điều chỉnh các hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi của một bên (tức là người tiêu dùng hoặc người hoạt động thương mại không thường xuyên) trong giao dịch với thương nhân. Nguyên tắc ở đây là, thương nhân với tư cách là một tổ chức, cá nhân hoạt động thương mại một cách thường xuyên như một nghề nghiệp phải có trách nhiệm cao hơn trong hoạt động thương mại so với những người tiêu dùng và những người hoạt động thương mại không thường xuyên (không chuyên nghiệp). Bên không phải là thương nhân có quyền chọn áp dụng hay không áp dụng Luật Thương mại năm 2005 để bảo vệ quyền, lợi ích của mình. Trong trường hợp Luật Thương mại năm 2005 không được lựa chọn, Bộ Luật Dân sự sẽ được áp dụng. Bổ sung này nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người tiêu dùng.
Như vậy, so với Luật Thương mại 1997, Luật Thương mại năm 2005 có những điều chỉnh mới như sau :
+ Một là: Luật Thương mại năm 2005 đã không điều chỉnh việc xác định địa vị pháp lý của thương nhân (vấn đề này sẽ được trình bày rõ thêm ở phần sau).
+ Hai là: Phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại năm 2005 là các hoạt động thương mại, trong đó hoạt động thương mại được hiểu là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Việc mở rộng nội hàm của khái niệm hoạt động thương mại và mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại năm 2005 đã đạt được các mục tiêu sau đây:
Thứ nhất, giúp hài hoà khái niệm hoạt động thương mại của Việt Nam với chuẩn mực quốc tế. Chuẩn mực ở đây được hiểu là quy định của của Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) và Uỷ ban Luật Thương mại quốc tế của Liên Hợp quốc (UNCITRAL). Cụ thể, khái niệm hoạt động thương mại của Việt Nam hiện nay đã bao trùm các lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và các khía cạnh thương mại của đầu tư và sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, giúp cho việc giải quyết các tranh chấp quốc tế được thực hiện dễ dàng hơn. Như chúng ta đều biết, Việt Nam đã tham gia Công ước Liên Hợp quốc về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài (gọi tắt là Công ước New York năm 1958). Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài ngày 14/9/1995. Cả hai văn bản này đều giới hạn phạm vi quyết định của trọng tài nước ngoài đối với các tranh chấp thương mại theo cách hiểu của pháp luật Việt Nam. Chính vì vậy, việc mở rộng nội hàm của hoạt động thương mại cũng tức là mở rộng phạm vi các tranh chấp được coi là tranh chấp thương mại. Và việc mở rộng đó đã tạo điều kiện cho Việt Nam thực thi được cam kết tại Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài liên quan đến tranh chấp thương mại tại Việt Nam.
1.2. Đối tượng áp dụng
Theo quy định tại Điều 2, Luật Thương mại năm 2005 được áp dụng đối với (i) thương nhân có hoạt động thương mại và (ii) tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại.
Đối với cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh thì Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng luật trên cơ sở những nguyên tắc của Luật Thương mại năm 2005.
Như vậy, những điểm mới cơ bản là:
Thứ nhất: so với Luật Thương mại năm 1997, đối tượng áp dụng của Luật Thương mại năm 2005 không chỉ dừng lại ở các thương nhân hoạt động thương mại tại Việt Nam mà còn cả những thương nhân có hoạt động thương mại tại nước ngoài mà các bên thỏa thuận áp dụng Luật này hoặc luật nước ngoài, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng Luật này. Điều này tạo thuận lợi cho các hoạt động ngoại thương và góp phần bảo vệ quyền lợi của thương nhân Việt Nam.
Thứ hai: đối tượng áp dụng của Luật Thương mại năm 2005 cũng được mở rộng ra đối với những đối tượng không phải là thương nhân khi có hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi trong giao dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật Thương mại. Đây là điểm quan trọng để giải quyết vấn đề quyền lợi của bên không phải là thương nhân, nếu họ thấy quyền lợi của họ được bảo vệ tốt hơn khi áp dụng Luật Thương mại. Đồng thời cũng tránh được tranh cãi lâu nay về trường hợp này thì áp dụng Bộ Luật Dân sự hay Luật Thương mại.
Thứ ba: Theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh (Điều 6 Luật Thương mại năm 2005). Như vậy, để trở thành thương nhân, các chủ thể phải có các điều kiện cần và đủ sau đây :
Điều kiện cần: các chủ thể phải là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp hoặc là cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên.
Điều kiện đủ: muốn trở thành thương nhân, các chủ thể phải được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Ngoài ra, Điều 7 Luật Thương mại năm 2005 có quy định thương nhân chưa đăng ký kinh doanh (thương nhân thực tế) vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình theo quy định của Luật Thương mại năm 2005 và quy định khác của pháp luật. Quy định này không có nghĩa là pháp luật khuyến khích các doanh nghiệp không đăng ký kinh doanh, việc không đăng ký kinh doanh là hành vi trái với quy định của pháp luật và có thể bị xử lý theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật doanh nghiệp.
Thứ tư: Luật Thương mại năm 1997 yêu cầu Chính phủ ban hành Quy chế riêng theo những nguyên tắc cơ bản của Luật Thương mại năm 1997 để điều chỉnh hoạt động của những người buôn bán rong, quà vặt có vốn kinh doanh, doanh thu, thu nhập thấp. Thực tiễn cho thấy, mặc dù đã cố gắng nghiên cứu và dự thảo nhưng Quy chế nói trên chưa được ban hành. Luật Thương mại năm 2005 lúc đầu dự kiến không điều chỉnh những đối tượng này. Tuy nhiên, xét về mặt áp dụng một số nguyên tắc cơ bản thì những đối tượng nêu trên buộc phải tuân thủ. Vì vậy, lần này Quốc hội không yêu cầu phải ban hành một Quy chế riêng mà chỉ yêu cầu Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng Luật theo những nguyên tắc của Luật.
1.3. Nguyên tắc áp dụng Luật
Một trong những điểm mới của Luật Thương mại năm 2005 là đã xác định rõ ràng vị trí của Luật Thương mại trong hệ thống pháp luật. Cụ thể là, trong mối quan hệ với Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại được xác định là luật riêng, trong mối quan hệ với các luật quy định các hoạt động thương mại đặc thù thì Luật Thương mại được xác định là luật chung.
Nhiệm vụ của Luật Thương mại năm 2005 là vừa đưa ra những nguyên tắc để điều chỉnh tất cả các hoạt động thương mại nhưng vừa phải điều tiết một số hoạt động thương mại cụ thể. Do đó, việc xác định rõ ràng vị trí của Luật Thương mại năm 2005 trong hệ thống pháp luật Việt Nam đã giúp xử lý vấn đề chồng lấn giữa những văn bản pháp luật cùng điều chỉnh hoạt động thương mại. Cụ thể là, trong mối quan hệ với Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại năm 2005 được xác định là luật riêng, tức là các giao dịch thương mại là một loại giao dịch dân sự đặc thù, có mục đích sinh lợi. Tuy nhiên, Luật Thương mại năm 2005 cũng không thể quy định chi tiết tất cả các hoạt động thương mại. Chính vì vậy, trong mối quan hệ với các luật quy định các hoạt động thương mại đặc thù như tài chính, bảo hiểm,…thì Luật Thương mại năm 2005 được xác định là luật chung, quy định nguyên tắc chung, còn những vấn đề cụ thể trong các lĩnh vực đó thì phải do các luật chuyên ngành điều chỉnh.
2. Nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại
Mục này có 6 điều (từ Điều 10 đến Điều 16), bao gồm các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại phù hợp với nguyên tắc của Bộ Luật Dân sự năm 2005 cũng như thực tiễn hoạt động thương mại tại Việt Nam.
Pháp luật dân sự là tổng hợp của tất cả các quy phạm pháp luật liên quan đến địa vị pháp lý của các chủ thể pháp luật dân sự, còn pháp Luật Thương mại chỉ điều chỉnh các hoạt động thương mại được thực hiện chủ yếu bởi thương nhân nhằm mục đích sinh lời. Bộ luật Dân sự quy định 10 nguyên tắc cho các quan hệ dân sự, trên nền các nguyên tắc đó, Luật Thương mại năm 2005 quy định rõ 6 nguyên tắc thể hiện tính đặc trưng của hoạt động thương mại. Các nguyên tắc đó là:
Thứ nhất, Luật Thương mại năm 2005 là tuyên ngôn về sự bình đẳng trước pháp luật của thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong hoạt động thương mại (Điều 10).
Trong kinh doanh nói chung cũng như trong hoạt động thương mại, quyền bình đẳng thể hiện ở chỗ, các thương nhân được pháp luật bảo đảm những cơ hội như nhau để tham gia cạnh tranh trong các hoạt động thương mại. Các cơ hội kinh doanh đó có tận dụng được hay không, phụ thuộc vào vị trí của từng thương nhân trên thị trường. Bình đẳng do vậy được hiểu là bình đẳng trước pháp luật. Còn công bằng tuyệt đối trong kinh doanh là điều không tưởng, vì cạnh tranh trên thị trường là phát huy các thế mạnh riêng nhằm tiếp cận, mở rộng, giành giữ thị phần, chèn ép để đẩy lùi đối thủ cạnh tranh là cần thiết và không thể tránh khỏi.[1]
Thứ hai, Luật Thương mại năm 2005 khẳng định quyền tự do, tự nguyện thoả thuận trong hoạt động thương mại (Điều 11).
Đây là một nguyên tắc rất quan trọng vì muốn cho hàng hoá lưu thông từ sản xuất ra thị trường và đi vào giai đoạn tiêu thụ, thương nhân phải được đảm bảo quyền tự do thoả thuận. Hợp đồng – nơi thể hiện kết quả của thoả thuận giữa các thương nhân – phải trở thành công cụ hữu hiệu để tổ chức tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ có liên quan. Quyền tự do thoả thuận đã được khẳng định trong Bộ luật Dân sự nhưng Luật Thương mại khẳng định lại quyền này cho các thương nhân trong hoạt động thương mại.
Thứ ba, Luật Thương mại năm 2005 thừa nhận việc áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại (Điều 12).
Có thể nói, đây là một nguyên tắc khá đặc thù của Luật Thương mại năm 2005. Thói quen trong hoạt động thương mại là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng được hình thành và lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài giữa các bên, được các bên mặc nhiên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thương mại. Trong hoạt động thương mại, chữ tín được thương nhân rất coi trọng, do đó, để thừa nhận giao dịch dạng này giữa các thương nhân cũng như để cơ quan tài phán có cơ sở xử lý tranh chấp phát sinh, Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Trừ trường hợp có thoả thuận khác, các bên được coi là mặc nhiên áp dụng thói quen trong hoạt động thương mại đã được thiết lập giữa các bên đó mà các bên đã biết hoặc phải biết nhưng không được trái với quy định của pháp luật.”
Thứ tư, Luật Thương mại năm 2005 thừa nhận việc áp dụng tập quán trong hoạt động thương mại (Điều 13).
Tập quán luôn có một vai trò rất quan trọng trong hoạt động thương mại. Tập quán thương mại là thói quen được thừa nhận rộng rãi trong hoạt động thương mại trên một vùng, miền hoặc một lĩnh vực thương mại, có nội dung rõ ràng được các bên thừa nhận để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại. Điều 13 Luật Thương mại năm 2005 cho phép các bên trong quan hệ thương mại có quyền áp dụng tập quán nếu tập quán đó không trái với các nguyên tắc của Luật Thương mại năm 2005 và Bộ luật Dân sự.
Thứ năm, Luật Thương mại năm 2005 đề cao trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng (Điều 14).
Người tiêu dùng có các quyền sau đây:
– Lựa chọn hàng hóa, dịch vụ; được cung cấp các thông tin trung thực về chất lượng, giá cả, phương pháp sử dụng hàng hóa, dịch vụ; được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe và môi trường khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ; được hướng dẫn những hiểu biết cần thiết về tiêu dùng (Điều 8 Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng).
– Đòi bồi hoàn, bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng, giá cả đã công bố hoặc hợp đồng đã giao kết; khiếu nại, tố cáo, khởi kiện theo quy định của pháp luật đối với việc sản xuất, kinh doanh hàng cấm, hàng giả, hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng và việc thông tin, quảng cáo sai sự thật (Điều 9 Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng).
– Yêu cầu tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh bảo đảm tiêu chuẩn, chất lượng hàng hóa, dịch vụ thuộc nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, bảo vệ sức khỏe, bảo vệ môi trường và các hàng hóa, dịch vụ khác đã đăng ký, công bố (Điều 11 Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng).
Thứ sáu, Luật Thương mại năm 2005 thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại.
Cùng với sự phát triển các hệ thống tin học hiện đại và hệ thống thông tin quốc tế, người ta muốn loại bỏ sự phụ thuộc vào giấy tờ kinh doanh như là vật chủ yếu mang thông tin phản ánh mọi giai đoạn thực hiện các giao dịch thương mại. Những thành tựu của công nghệ điện tử đã và đang được áp dụng ngày càng rộng rãi trong các giao dịch thương mại, cho phép các nhà kinh doanh chuyển thông tin qua các hệ thống tin học và thông tin viễn thông hiện đại một cách nhanh chóng mà vẫn đảm bảo tính chính xác, làm cho hiệu quả của việc giao kết các hợp đồng tăng lên đáng kể.
Theo cách hiểu thông dụng hiện nay trên thế giới, thương mại điện tử theo nghĩa rộng được hiểu là các giao dịch tài chính và thương mại bằng phương tiện điện tử như trao đổi dữ liệu điện tử, chuyển tiền điện tử và các hoạt động gửi, rút tiền bằng thẻ tín dụng. Còn theo nghĩa hẹp, thương mại điện tử chỉ bao gồm các hoạt động thương mại được thực hiện thông qua mạng Internet.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, có rất nhiều giao dịch dân sự, thương mại yêu cầu phải được thực hiện dưới hình thức văn bản. Theo quan niệm lâu nay của cả những nhà lập pháp và các thẩm phán trong điều kiện một nền thương mại truyền thống, thì văn bản được hiểu là văn bản trên giấy tờ (dưới hình thức viết). Nếu đòi hỏi các hợp đồng thương mại, dân sự phải được thể hiện dưới hình thức viết và chữ ký tay; thì những ưu thế của giao dịch thương mại thông qua các mạng tin học sẽ không được tận dụng.Vì vậy, việc xoá bỏ rào cản đầu tiên ảnh hưởng đến sự phát triển của thương mại điện tử là Nhà nước cần có sự ghi nhận về mặt pháp lý đối với giá trị của văn bản giao dịch thông qua phương tiện điện tử. Luật Thương mại năm 2005 đã thực hiện được điều này khi thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại.
Ngoài ra, so với Luật Thương mại năm 1997, các quy định về chính sách như chính sách đối với doanh nghiệp Nhà nước, đối với hợp tác xã và các hình thức kinh tế hợp tác khác, đối với thương nhân thuộc các thành phần kinh tế cá thể, tư bản tư nhân đã bị bãi bỏ để đảm bảo sự bình đẳng giữa tất cả các thành phần kinh tế. Chính sách đối với các khu vực, nội – ngoại thương được thể hiện cụ thể trong các điều luật, không quy định chung chung và thậm chí trái với các cam kết quốc tế của ta như Luật Thương mại năm 1997 (ví dụ như các chính sách ưu đãi xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất được…).
3. Hoạt động thương mại của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam
Mục này có 8 điều (từ Điều 16 đến Điều 23), bao gồm các quy định về: thương nhân nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt Nam; Quyền và nghĩa vụ của Văn phòng đại diện, của Chi nhánh, của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ; thẩm quyền cho phép thương nhân nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt Nam và chấm dứt hoạt động tại Việt Nam của thương nhân nước ngoài.
Thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận.
Văn phòng đại diện của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam là đơn vị phụ thuộc của thương nhân nước ngoài, được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam để tìm hiểu thị trường và thực hiện một số hoạt động xúc tiến thương mại mà pháp luật Việt Nam cho phép.
Chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam là đơn vị phụ thuộc của thương nhân nước ngoài, được thành lập và hoạt động thương mại tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Để tiếp cận và tìm kiếm các khả năng khai thác thị trường tiêu thụ hàng hoá một cách lâu dài, thương nhân nước ngoài có thể thành lập Văn phòng đại diện, Chi nhánh, thành lập doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài để kinh doanh thương mại.
Như vậy, so với Luật Thương mại năm 1997, Luật Thương mại năm 2005 đã thừa nhận những hình thức mới của thương nhân nước ngoài khi hoạt động thương mại tại Việt Nam. Luật Thương mại năm 1997 chỉ quy định về Văn phòng đại diện, Chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam. Luật Thương mại năm 2005, ngoài hai hình thức trên, đã quy định thêm về doanh nghiệp thương mại liên doanh, doanh nghiệp thương mại 100% vốn của nước ngoài tại Việt Nam.
Những bước đi đầu tiên của chúng ta trên bước đường hội nhập là thời điểm bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ, gia nhập ASEAN, APEC, ASEM. Nhưng nếu giai đoạn 2000 – 2005 được xem là giai đoạn của các cuộc đàm phán cam kết mở cửa thị trường thì giai đoạn 2006 – 2010 lại là thời gian chúng ta bắt đầu thực hiện những cam kết quốc tế. Đó là cam kết mở cửa thị trường với Hoa Kỳ, Nhật bản trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại song phương, với Trung Quốc trong khuôn khổ Hiệp định hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Trung Quốc. Chúng ta cũng đang đàm phán và sẽ phải thực hiện trong tương lai gần các cam kết mở cửa thị trường với WTO và các cam kết về dịch vụ với ASEAN. Trong quá trình thực hiện các cam kết, việc thực hiện cam kết mở cửa thị trường phân phối là một trong những lĩnh vực nhạy cảm được Luật Thương mại năm 2005 điều chỉnh.
MUA BÁN HÀNG HOÁ
Chương II. Mua bán hàng hóa – có 3 mục, bao gồm: các quy định chung đối với hoạt động mua bán hàng hóa; quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa và quy định về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa.
1. Những quy định chung về mua bán hàng hoá
Mục này có 10 điều (từ Điều 24 đến Điều 33), bao gồm các quy định về: hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa ; hàng hóa cấm kinh doanh, hàng hóa hạn chế kinh doanh, hàng hóa kinh doanh có điều kiện ; áp dụng biện pháp khẩn cấp đối với hàng hóa lưu thông trong nước; mua bán hàng hóa quốc tế; xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa; tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập hàng hóa; chuyển khẩu hàng hóa ; áp dụng các biện pháp khẩn cấp đối với hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế; nhãn hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu ; giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa và quy tắc xuất xứ hàng hóa.
Hàng hóa theo Luật Thương mại năm 2005 bao gồm (i) tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và (ii) những vật gắn liền với đất đai. Như vậy, có thể nói, khái niệm hàng hoá trong Luật Thương mại năm 2005 đã có tính khái quát cao trong hệ thống pháp luật hiện hành.
Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó, bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận.
Vì hàng hoá vừa có thể là tài sản được dùng trong quá trình sản xuất kinh doanh, vừa có thể là hàng tiêu dùng, cho nên chủ thể của các quan hệ mua bán hàng hoá thường là thương nhân hoặc giữa một bên là thương nhân và các bên khác là người tiêu dùng.
Những quy định chung về mua bán hàng hoá trong Luật Thương mại năm 2005 có sự bổ sung lớn so với Luật Thương mại năm 1997, thể hiện qua các điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, về hàng hoá cấm kinh doanh, hàng hoá hạn chế kinh doanh, hàng hoá kinh doanh có điều kiện, Luật đã quy định cơ sở để quản lý việc lưu thông hàng hoá trên thị trường. Về cơ bản, hàng hoá lưu thông trên thị trường thuộc về một trong 4 hình thức sau đây: tự do kinh doanh, cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện. Căn cứ vào điều kiện kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ, Luật giao Chính phủ quy định những điều kiện để quản lý hàng hoá lưu thông trên thị trường.
Thứ hai, về hoạt động mua bán hàng hóa trong nước: Luật quy định thương nhân được mua bán tất cả các loại hàng hóa trừ hàng hóa cấm kinh doanh; đối với hàng hóa hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện thì khi kinh doanh thương nhân phải đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định.
Thứ ba, về hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế: Luật khẳng định quyền hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của mọi thương nhân đối với mọi hàng hóa, trừ những mặt hàng pháp luật cấm xuất khẩu, nhập khẩu. Căn cứ vào điều kiện kinh tế – xã hội của từng thời kỳ, Chính phủ sẽ có quy định cụ thể về những hàng hóa thuộc diện cấm xuất nhập khẩu. Đối với những mặt hàng cần thực hiện việc quản lý xuất nhập khẩu theo giấy phép thì thủ tục cấp phép phải đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch theo Hiệp định cấp giấy phép xuất nhập khẩu của WTO.
Thứ tư, về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp trong lưu thông hàng hoá trong nước: Đây là điểm mới so với Luật Thương mại năm 1997. Luật đã quy định rõ ràng các biện pháp khẩn cấp bao gồm: thu hồi hàng hoá, cấm lưu thông, tạm ngừng lưu thông, lưu thông có điều kiện hoặc phải có giấy phép. Luật cũng đồng thời quy định rõ ràng cơ sở để áp dụng các biện pháp khẩn cấp này, đó là khi hàng hoá là nguồn gốc hoặc phương tiện lây truyền các loại dịch bệnh hoặc khi xảy ra tình trạng khẩn cấp.
Thứ năm, về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp trong mua bán hàng hoá quốc tế. Đây cũng là điểm mới so với Luật Thương mại năm 1997. Như chúng ta đã biết, thời gian qua, hoạt động ngoại thương của chúng ta đã bị ảnh hưởng đáng kể do các biện pháp phi thuế của nước ngoài[2]. Trong điều kiện chúng ta đang đàm phán gia nhập WTO, việc Luật Thương mại quy định cơ sở pháp lý để Thủ tướng Chính phủ áp dụng biện pháp khẩn cấp trong thương mại quốc tế là vô cùng cần thiết để hạn chế các tác hại tiêu cực của quá trình hội nhập.
Thứ sáu, Luật bổ sung một số chế định để làm rõ các phương thức của hoạt động xuất nhập khẩu. Trước đây chúng ta đã có những quy định về vấn đề này, tuy nhiên, việc nâng các quy phạm điều tiết các phương thức xuất nhập khẩu lên thành luật là cần thiết để nâng cao giá trị pháp lý, từ đó các bộ, ngành đều phải có trách nhiệm trong việc quy định quản lý các phương thức này, đây không phải là trách nhiệm của riêng Bộ Thương mại.
Thứ bảy, Luật đã quy định mang tính nguyên tắc đối với nhãn hàng hoá và xuất xứ hàng hoá làm cơ sở pháp lý cho Chính phủ quy định chi tiết thi hành nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý cho việc thực hiện trên thực tế.
Như vậy, những quy định về chính sách đối với hàng hóa lưu thông trong nước và chính sách ngoại thương đã được xác định bằng những điều luật cụ thể để Chính phủ có thể linh hoạt áp dụng.
2. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá
Mục này có 29 điều (từ Điều 34 đến Điều 62), bao gồm các quy định về quyền và nghĩa vụ các bên trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa. Luật Thương mại năm 2005 không quy định chung về hợp đồng như Luật Thương mại năm 1997 nữa mà chỉ quy định những vấn đề đặc thù trong hợp đồng thương mại, có tham khảo Công ước Viên năm 1980 và những tập quán, thông lệ quốc tế về mua bán hàng hóa khác để xây dựng được quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa phù hợp nhất với điều kiện thực tế của Việt Nam. Đây là một điểm rất quan trọng để thống nhất các quy định chung về hợp đồng, tránh tình trạng như trước đây có đến ba loại hợp đồng là hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại và hợp đồng kinh tế. Những quy định chung về hợp đồng như chào hàng, chấp nhận chào hàng, sửa đổi bổ sung chào hàng…được quy định thống nhất trong Bộ Luật Dân sự.
Bên cạnh đó, việc loại bỏ yêu cầu bắt buộc về các nội dung chủ yếu của hợp đồng mà Luật Thương mại năm 1997 quy định đã đặt ra yêu cầu phải giải quyết thận trọng, kỹ càng hơn các trường hợp mà các bên không có cam kết, đặc biệt là vấn đề giao hàng, nhận hàng và thanh toán.
Một số nội dung cơ bản mới được sửa đổi, bổ sung vào Luật Thương mại năm 2005 trong mục này là:
2.1. Nghĩa vụ của bên bán
Luật Thương mại năm 2005 bổ sung thêm một số quy định về giao hàng trong trường hợp không có thoả thuận hoặc thoả thuận không rõ về địa điểm giao hàng (Điều 35), thời hạn giao hàng (Điều 37); nghĩa vụ của bên bán trong trường hợp hàng hóa là đối tượng của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 48), nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa đã bán là bên bán không được bán hàng hoá vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và phải chịu trách nhiệm trong trường hợp có tranh chấp xảy ra (Điều 46 khoản 1). Trường hợp bên bán thực hiện theo yêu cầu của bên mua về kỹ thuật, thiết kế, công thức hoặc những số liệu chi tiết thì bên bán sẽ không phải chịu trách nhiệm về các khiếu nại liên quan đến những vi phạm quyền sở hữu trí tuệ phát sinh từ việc bên bán tuân thủ những yêu cầu của bên mua (Điều 46 khoản 2). Tuy nhiên, bên bán có nghĩa vụ thông báo ngay cho bên mua về khiếu nại của bên thứ ba đối với hàng hoá được giao sau khi bên bán biết hoặc không thể không biết về khiếu nại đó, trừ trường hợp bên mua đã biết hoặc không thể không biết. Nếu bên bán không thông báo thì bên bán sẽ mất quyền viện dẫn này (Điều 47 khoản 1) và bên mua cũng mất quyền viện dẫn này nếu bên mua cũng không thông báo ngay cho bên bán về khiếu nại của bên thứ ba đối với hàng hoá được giao sau khi bên mua biết hoặc không thể không biết về khiếu nại đó, trừ trường hợp bên bán biết hoặc không thể không biết về khiếu nại của bên thứ ba đó (Điều 47 khoản 2).
2.2. Chuyển rủi ro và chuyển quyền sở hữu
Luật Thương mại năm 2005 bổ sung các quy định về chuyển rủi ro trong các trường hợp cụ thể sau:
+ Có địa điểm giao hàng xác định thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua khi hàng hoá đã được giao cho bên mua hoặc người được bên mua uỷ quyền đã nhận hàng tại địa điểm đó, kể cả trong trường hợp bên bán được uỷ quyền giữ lại các chứng từ xác lập quyền sở hữu đối với hàng hoá (Điều 57).
+ Không có địa điểm giao hàng xác định thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua khi hàng hoá đã được giao cho người vận chuyển đầu tiên (Điều 58).
+ Nếu hàng hoá đang được người nhận hàng để giao nắm giữ mà không phải là người vận chuyển thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua thuộc một trong các trường hợp (i) khi bên mua nhận được chứng từ sở hữu hàng hoá hoặc (ii) khi người nhận hàng để giao xác nhận quyền chiếm hữu hàng hoá của bên mua (Điều 59).
+ Nếu đối tượng của hợp đồng là hàng hoá đang trên đường vận chuyển thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm giao kết hợp đồng (Điều 60).
+ Nếu không thuộc một trong các trường hợp được nêu trên thì rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng hàng hoá được chuyển cho bên mua, kể từ thời điểm hàng hóa thuộc quyền định đoạt của bên mua và bên mua vi phạm hợp đồng do không nhận hàng với điều kiện hàng hoá được xác định rõ ràng bằng ký mã hiệu, chứng từ vận tải và được thông báo cho bên mua (Điều 61).
Như vậy, so với 02 điều quy định về chuyển quyền sở hữu hàng hoá và 01 điều quy định về chuyển rủi ro đối với hàng hoá trên đường vận chuyển trong Luật Thương mại năm 1997, thì 05 điều quy định về chuyển rủi ro và 01 điều quy định về chuyển quyền sở hữu trong Luật Thương mại năm 2005 là khá đầy đủ, vẫn đảm bảo tôn trọng quyền thoả thuận của thương nhân nhưng vẫn dự phòng được các trường hợp thực tế đã diễn ra để làm cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp tại các cơ quan tài phán.
2.3. Nghĩa vụ của bên mua
Luật Thương mại năm 2005 bổ sung các quy định về địa điểm thanh toán (Điều 54), thời hạn thanh toán trong trường hợp các bên không có thỏa thuận (Điều 55); nghĩa vụ nhận hàng (Điều 56) và thực hiện những công việc hợp lý của bên mua để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho bên bán. Đây là một sự thay đổi rất quan trọng dựa trên một nguyên tắc chung của “tính hợp lý” – nguyên tắc cơ bản nhất để xác định nghĩa vụ của các bên trong các giao dịch thương mại. Thực tế thương mại cho thấy, không phải lúc nào, các nội dung mang tính bắt buộc phải có trong hợp đồng được quy định của Luật Thương mại năm 1997 như giá cả, thời hạn, địa điểm thanh toán đều được các bên thoả thuận cụ thể. Trong trường hợp các bên trong hợp đồng không có thoả thuận hoặc thoả thuận không rõ về thời hạn giao hàng thì pháp luật buộc phải quy định để tạo điều kiện thuận lợi cho các bên thực hiện hợp đồng.
Nhìn chung, các quy định của Luật Thương mại năm 2005 và Bộ luật dân sự không mâu thuẫn với nhau. Riêng đối với thời hạn thanh toán, Luật Thương mại năm 2005 bổ sung trường hợp thanh toán ngay khi bên bán giao chứng từ liên quan đến hàng hoá (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác) cho phù hợp với thực tiễn thương mại.
3. Mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá
Chế định mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá được quy định tại Mục 3 Chương II (từ Điều 63 đến Điều 73). Đây là một chế định hoàn toàn mới của Luật Thương mại năm 2005 so với Luật Thương mại năm 1997.
Luật Thương mại năm 2005 đưa ra những quy định mang tính cơ bản nhất đối với hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá để làm cơ sở cho sự phát triển của hoạt động này trong tương lai. Các quy định của Mục này đã nêu bật các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, các khuôn khổ pháp lý được ghi nhận trong Luật Thương mại năm 2005 không phải là sự “ép buộc” hình thành nên các thị trường kỳ hạn mà là sự “hỗ trợ bằng hành lang pháp lý” cho sự phát triển và hình thành các thị trường này.
Việc hình thành Sở giao dịch hàng hóa để phát triển thị trường kỳ hạn và thị trường quyền chọn là vấn đề phức tạp, không đơn thuần là các vấn đề pháp lý mà phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các yếu tố thị trường. Không thể dễ dàng và ngay lập tức thành lập Sở giao dịch hàng hóa đối với một mặt hàng bất kỳ, mà Sở giao dịch hàng hóa chỉ có thể được thành lập khi số lượng các giao dịch và các điều khoản giao dịch đối với mặt hàng đó đã phát triển và được tiêu chuẩn hóa ở mức độ cao. Các giao dịch kỳ hạn không hình thành do có sự tồn tại của Sở giao dịch hàng hóa mà là do nhu cầu của các bên trên thị trường quyết định. Như vậy, vai trò của khuôn khổ pháp lý trong Luật Thương mại năm 2005 không phải là “tạo” ra thị trường, mà là định hướng, thúc đẩy sự hình thành của các thị trường này phù hợp với các quy luật của thị trường.
Thứ hai, việc tạo dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa không chỉ được xử lý bởi các quy định của Luật Thương mại năm 2005 mà sẽ phải được xử lý đồng bộ với các văn bản quy phạm pháp luật khác.
Hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hoá có liên quan đến rất nhiều vấn đề khác nhau, như giao dịch điện tử, thuế, thanh toán, quản lý ngoại tệ… Để Sở giao dịch hàng hóa có thể được thành lập và hoạt động một cách hiệu quả, các quy định có liên quan đó cũng cần được xử lý một cách đồng bộ. Hiện nay, các quy định hiện hành về những vấn đề này chưa giải quyết hết những điểm đặc thù của giao dịch mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa. Ví dụ, việc tính thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các giao dịch mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hóa, cách thức xác lập hợp đồng và thừa nhận giá trị pháp lý của các giao dịch thông qua hệ thống mạng kết nối giữa doanh nghiệp và Sở giao dịch hàng hóa, các biện pháp bảo đảm để hoạt động mua bán hàng hoá qua sở giao dịch được thực hiện… là những yếu tố mà hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa có. Luật Thương mại lần này mới chỉ dừng lại ở việc quy định khung pháp lý cơ bản nhất cho hoạt động cho hoạt động mua bán hàng hoá qua sở giao dịch.
Thứ ba, để phù hợp với thực tiễn của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Luật Thương mại năm 2005 không quy định một cách chi tiết, cụ thể mọi vấn đề liên quan đến các giao dịch này, mà nhiều vấn đề sẽ được Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành.
Luật Thương mại năm 2005 chỉ xử lý những vấn đề cơ bản nhất có liên quan, cụ thể là: xác định rõ các khái niệm cơ bản như hợp đồng kỳ hạn (khoản 2 Điều 64), hợp đồng quyền chọn (khoản 3 Điều 64), quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hoạt động mua bán hàng hóa (Điều 65, Điều 66), tạo cơ sở pháp lý cho việc thành lập Sở giao dịch hàng hóa (Điều 67, Điều 69), những hành vi bị cấm trong hoạt động mua bán hàng hoá (Điều 71) và những hành vi bị cấm đối với thương nhân môi giới mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch (Điều 70)… Còn các vấn đề chi tiết có liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa như quy trình thanh toán, quy trình niêm yết thông tin, điều kiện để trở thành thành viên của Sở giao dịch hàng hóa, Điều lệ hoạt động của Sở giao dịch hàng hóa… sẽ được quy định cụ thể tại Nghị định của Chính phủ về vấn đề này.
Thứ tư, Luật Thương mại năm 2005 khuyến khích việc hình thành và phát triển của thị trường kỳ hạn, tuy nhiên, vẫn đảm bảo quản lý một cách chặt chẽ các hoạt động này.
Các giao dịch kỳ hạn chủ yếu nhằm mục đích bảo hiểm về giá (hedging), các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia thị trường nước ngoài cũng chủ yếu vì mục đích này. Tuy nhiên, một khi Sở giao dịch hàng hóa được thành lập tại Việt Nam thì các giao dịch mang tính chất đầu cơ (speculating) sẽ xuất hiện. Việc hình thành các giao dịch đầu cơ là một yếu tố khách quan và điều không thể thiếu để Sở giao dịch hàng hóa phát triển nhưng đi kèm với các giao dịch đó cũng là nguy cơ rủi ro cao và các hiện tượng lừa đảo. Hiện tượng một số tổ chức tài chính lớn thông qua các giao dịch trên thị trường kỳ hạn để bóp méo thị trường, gây khủng hoảng thị trường cũng cần được xử lý kịp thời. Như vậy, để có thể đảm bảo sự hình thành và phát triển một cách đúng đắn, lành mạnh của thị trường mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá, các biện pháp giám sát chặt chẽ, các biện pháp nghiêm cấm đối với những hành vi vi phạm cũng cần phải được thiết lập cụ thể. Chính vì vậy, Luật đã đưa ra chế định khung quy định những hành vi bị cấm đối với thương nhân môi giới mua bán hàng hoá và những hành vi bị cấm trong hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch.
Thứ năm, Luật Thương mại năm 2005 thừa nhận và khẳng định quyền của thương nhân trong việc thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài.
Hoạt động này là nhu cầu tất yếu của các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, khi Sở giao dịch hàng hóa của Việt Nam chưa thể thành lập ngay được. Việc khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tham gia hoạt động này cũng sẽ góp phần nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam, điều đó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hình thành Sở giao dịch hàng hóa của Việt Nam trong tương lai.
CUNG ỨNG DỊCH VỤ
XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI
I. CUNG ỨNG DỊCH VỤ
Chương III. Cung ứng dịch vụ – có 2 mục, bao gồm các quy định chung đối với hoạt động cung ứng dịch vụ và các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng cung ứng dịch vụ.
1. Những quy định chung đối với hoạt động cung ứng dịch vụ
Mục này có 4 điều (từ Điều 74 đến Điều 77), bao gồm các quy định về: hình thức hợp đồng dịch vụ; quyền cung ứng và sử dụng dịch vụ của thương nhân; dịch vụ cấm kinh doanh, dịch vụ hạn chế kinh doanh và dịch vụ kinh doanh có điều kiện; áp dụng các biện pháp khẩn cấp đối với hoạt động cung ứng hoặc sử dụng dịch vụ.
Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó, một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.
Quyền cung ứng và quyền sử dụng dịch vụ của thương nhân được xây dựng trên cơ sở những phương thức cung ứng dịch vụ phù hợp với quy định về thương mại dịch vụ của BTA và WTO. Trên cơ sở các quy định chung này, Chính phủ sẽ quy định chi tiết về đối tượng cư trú và không cư trú nhằm xây dựng chính sách thuế, quản lý xuất khẩu, nhập khẩu cho phù hợp.
Về dịch vụ cấm kinh doanh, dịch vụ hạn chế kinh doanh và dịch vụ kinh doanh có điều kiện, Luật quy định :
“Căn cứ vào điều kiện kinh tế – xã hội của từng thời kỳ và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Chính phủ quy định cụ thể danh mục dịch vụ cấm kinh doanh, dịch vụ hạn chế kinh doanh, dịch vụ kinh doanh có điều kiện và điều kiện để được kinh doanh dịch vụ đó.
Đối với dịch vụ hạn chế kinh doanh, dịch vụ kinh doanh có điều kiện, việc cung ứng dịch vụ chỉ được thực hiện khi dịch vụ và các bên tham gia hoạt động cung ứng dịch vụ đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.”
Về việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp đối với hoạt động cung ứng hoặc sử dụng dịch vụ, Luật quy định : “Trong trường hợp cần thiết, để bảo vệ an ninh quốc gia và các lợi ích quốc gia khác phù hợp với pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Thủ tướng Chính phủ quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp đối với hoạt động cung ứng hoặc sử dụng dịch vụ, bao gồm việc tạm thời cấm cung ứng hoặc sử dụng đối với một hoặc một số loại dịch vụ hoặc các biện pháp khẩn cấp khác đối với một hoặc một số thị trường cụ thể trong một thời gian nhất định.”
2. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng dịch vụ
Mục này có 10 điều (từ Điều 78 đến Điều 87), bao gồm các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng dịch vụ, như : nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ (từ Điều 78 đến Điều 80); thời hạn hoàn thành dịch vụ (Điều 82); nghĩa vụ của khách hàng (Điều 85); giá dịch vụ (Điều 86); thời hạn thanh toán (Điều 87).
Luật Thương mại năm 2005 không quy định cụ thể về các loại dịch vụ mà chỉ quy định khung chung về thương mại dịch vụ. Mỗi dịch vụ, trước hết phải tuân thủ quy định của luật chuyên ngành như: dịch vụ lao động, dịch vụ tư vấn pháp lý, dịch vụ đào tạo, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải… được điều chỉnh bởi Bộ luật Lao động, Luật Giáo dục, Luật Bảo hiểm, Luật các Tổ chức tín dụng… Trường hợp luật chuyên ngành về dịch vụ có quy định riêng biệt về hợp đồng thì sẽ ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành đó như nguyên tắc áp dụng luật đã được khẳng định tại Điều 4. Trường hợp hoạt động cung cứng dịch vụ chưa có luật chuyên ngành điều chỉnh thì quan hệ hợp đồng trong những hoạt động cung ứng dịch vụ đó sẽ chịu sự điều chỉnh bởi quy định về hợp đồng dịch vụ trong Luật Thương mại năm 2005. Cách quy định này tạo sự đồng bộ trong pháp luật về hợp đồng, khắc phục thực tế là cho dù đã có một số luật chuyên ngành điều chỉnh về hợp đồng dịch vụ nhưng cũng chưa bao hàm hết các lĩnh vực dịch vụ trên thị trường.
II. XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI
Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại.
Chương IV. Xúc tiến thương mại – gồm 4 mục, quy định về khuyến mại; quảng cáo thương mại; trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ; hội chợ, triển lãm thương mại.
Các hoạt động khuyến mại trước đây chỉ có 6 điều trong Luật Thương mại năm 1997 nay đã được bổ sung và sửa đổi thành 14 điều; Quảng cáo thương mại tăng từ 12 điều lên 15 điều; Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ tăng từ 10 điều lên 12 điều; Hội chợ, triển lãm thương mại tăng từ 11 điều lên 12 điều.
Nhiều nội dung mới được đưa vào Luật như bổ sung các hình thức khuyến mại, làm rõ các thông tin phải thông báo công khai trong hoạt động khuyến mại, trách nhiệm của các bên trong hoạt động hội chợ, triển lãm…
1. Khuyến mại
Mục này có 14 điều (từ Điều 88 đến Điều 101), bao gồm các quy định về: khuyến mại ; kinh doanh dịch vụ khuyến mại ; hợp đồng dịch vụ khuyến mại; quyền khuyến mại của thương nhân; các hình thức khuyến mại; hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại; hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại, mức giảm giá khuyến mại; quyền, nghĩa vụ của thương nhân thực hiện khuyến mại ; thông tin phải thông báo công khai; cách thức thông báo; bảo đảm bí mật thông tin về chương trình, nội dung khuyến mại; các hành vi bị cấm trong hoạt động khuyến mại; đăng ký hoạt động khuyến mại, thông báo kết quả khuyến mại với cơ quan quản lý nhà nước về thương mại.
Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định.
Kinh doanh dịch vụ khuyến mại là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân thực hiện khuyến mại cho hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác trên cơ sở hợp đồng.
Trước khi thực hiện hoạt động khuyến mại, thương nhân phải đăng ký và sau khi kết thúc hoạt động khuyến mại, thương nhân phải thông báo kết quả với cơ quan quản lý nhà nước về thương mại.
Những thay đổi chủ yếu của quy định về khuyến mại trong Luật Thương mại năm 2005 so với Luật Thương mại năm 1997 gồm:
Thứ nhất, bổ sung quy định cụ thể quyền thực hiện khuyến mại của thương nhân. Về cơ bản, mọi thương nhân đều có quyền thực hiện khuyến mại, trừ Văn phòng đại diện của thương nhân, do hoạt động khuyến mại gắn liền với việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, nhưng Văn phòng đại diện lại không thể tiến hành hoạt động này vì không được kinh doanh sinh lời trực tiếp.
Thứ hai, một số hình thức khuyến mại cũng đã được bổ sung theo hướng khái quát hoá những hình thức có đặc điểm chung (như các chương trình mang tính may rủi) và bổ sung một số hình thức khuyến mại mà các thương nhân đã tiến hành trên thực tế nhưng chưa có quy định của pháp luật điều chỉnh, bao gồm:
+ Bổ sung hành vi cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử mà không thu tiền;
+ Bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính may rủi;
+ Tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên;
+ Tổ chức tham gia các chương trình văn hóa, nghệ thuật, giải trí và các sự kiện khác vì mục đích khuyến mại.
Thứ ba, quy định cụ thể về hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại và hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại. Luật Thương mại năm 1997 chỉ có quy định về hàng hóa dùng để khuyến mại, mà không đề cập đến dịch vụ dùng để khuyến mại cũng như hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại.
Thứ tư, Luật đã bổ sung quy định về việc không cho phép hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh được khuyến mại hoặc được dùng để khuyến mại.
Đây là quy định mới của Luật Thương mại năm 2005. Luật Thương mại năm 1997 không cấm khuyến mại hoặc dùng hàng hóa thuộc diện hạn chế kinh doanh để khuyến mại. Các tranh luận giữa các thành viên ban soạn thảo và giữa các đại biểu Quốc hội cho thấy quan điểm chung là: hàng hóa, dịch vụ đã hạn chế kinh doanh thì không thể khuyến khích tiêu dùng thông qua hoạt động khuyến mại vì rõ ràng có sự mâu thuẫn giữa hạn chế và khuyến khích.
Thứ năm, Luật cũng giao Chính phủ quy định hạn chế về mức giá trị tối đa của hàng hóa, dịch vụ dùng để khuyến mại và mức giảm giá tối đa đối với hàng hóa, dịch vụ khuyến mại nhằm chống việc lợi dụng khuyến mại để bán phá giá hàng hóa, dịch vụ.
Một số đại biểu Quốc hội còn yêu cầu không thừa nhận các hình thức khuyến mại làm ảnh hưởng tới sự tự do lựa chọn của người tiêu dùng vì trong trường hợp này, người tiêu dùng mua hàng hóa là do bị lôi kéo bởi được lợi quá lớn nếu trúng thưởng và điều đó không khuyến khích cạnh tranh lành mạnh.
Trong Luật Cạnh tranh đã cấm một số hoạt động khuyến mại ảnh hưởng tới sự tự do lựa chọn của người tiêu dùng như tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử mà lại yêu cầu khách hàng đổi hàng hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử dụng. Đối với khuyến mại có giá trị lớn để lôi kéo khách hàng, việc quy định mức giá trị tối đa của hàng hóa dịch vụ dùng để khuyến mại có thể hạn chế một phần hiện tượng này.
Thứ sáu, bổ sung thêm nghĩa vụ của thương nhân phải trích 50% giá trị giải thưởng đã công bố vào ngân sách nhà nước trong trường hợp không có người trúng thưởng nếu thực hiện khuyến mại dưới hình thức bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình có tính may rủi.
Thứ bảy, bổ sung thêm nghĩa vụ của thương nhân phải thông báo công khai các thông tin liên quan đến hoạt động khuyến mại mà mình thực hiện và cách thức thông báo cụ thể phù hợp với từng hình thức khuyến mại nhằm tăng cường trách nhiệm của thương nhân khi thực hiện khuyến mại, tạo sự minh bạch trong hoạt động khuyến mại, bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng.
2. Quảng cáo thương mại
Mục này có 15 điều (từ Điều 102 đến Điều 116), bao gồm các quy định về: quảng cáo thương mại; quyền quảng cáo thương mại; kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại; sản phẩm quảng cáo thương mại; phương tiện quảng cáo thương mại; sử dụng phương tiện quảng cáo thương mại; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm quảng cáo thương mại; các quảng cáo thương mại bị cấm; hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại; người phát hành quảng cáo thương mại; quyền, nghĩa vụ của bên thuê, của bên cung ứng dịch vụ, của người phát hành quảng cáo thương mại.
Việc sửa đổi, bổ sung những quy định về quảng cáo thương mại được đặt ra trong bối cảnh có sự chồng chéo giữa Luật Thương mại và Pháp lệnh Quảng cáo. Do đó, Luật xác định rõ quảng cáo là hoạt động xúc tiến thương mại và thương nhân phải chịu trách nhiệm theo quy định của Luật này. Những nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu gồm:
Thứ nhất, khẳng định rõ “quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của mình” và “kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại là hoạt động thương mại của thương nhân để thực hiện việc quảng cáo thương mại cho thương nhân khác”.
Thứ hai, quy định cụ thể về quyền thực hiện quảng cáo thương mại, theo đó “Thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương nhân nước ngoài được phép hoạt động thương mại tại Việt Nam có quyền quảng cáo về hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của mình hoặc thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo thực hiện việc quảng cáo thương mại cho mình. Văn phòng đại diện của thương nhân không được trực tiếp thực hiện hoạt động quảng cáo thương mại. Trong trường hợp được thương nhân ủy quyền, Văn phòng đại diện có quyền ký hợp đồng với thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại để thực hiện quảng cáo cho thương nhân mà mình đại diện. Thương nhân nước ngoài muốn quảng cáo thương mại về hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của mình tại Việt Nam phải thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo thương mại Việt Nam thực hiện.”
Thứ ba, bổ sung quy định về các quảng cáo thương mại bị cấm nhằm tăng cường bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, thương nhân khác và duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh. Theo Điều 109, các quảng cáo thương mại bị cấm bao gồm :
1. Quảng cáo làm tiết lộ bí mật nhà nước, phương hại đến độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.
2. Quảng cáo có sử dụng sản phẩm quảng cáo, phương tiện quảng cáo trái với truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam và trái với quy định của pháp luật.
3. Quảng cáo hàng hóa, dịch vụ mà Nhà nước cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh hoặc cấm quảng cáo.
4. Quảng cáo thuốc lá, rượu có độ cồn từ 30 độ trở lên và các sản phẩm, hàng hóa chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng trên thị trường Việt Nam tại thời điểm quảng cáo.
5. Lợi dụng quảng cáo thương mại gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân.
6. Quảng cáo bằng việc sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ của mình với hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cùng loại của thương nhân khác.
7. Quảng cáo sai sự thật về một trong các nội dung số lượng, chất lượng, giá, công dụng, kiểu dáng, xuất xứ hàng hóa, chủng loại, bao bì, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành của hàng hóa, dịch vụ.
8. Quảng cáo cho hoạt động kinh doanh của mình bằng cách sử dụng sản phẩm quảng cáo vi phạm quyền sở hữu trí tuệ; sử dụng hình ảnh của tổ chức, cá nhân khác để quảng cáo khi chưa được tổ chức, cá nhân đó đồng ý.
9. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp luật.
3. Trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ
Mục này có 12 điều (từ Điều 117 đến Điều 128), bao gồm các quy định về: trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ; quyền trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ; kinh doanh dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ; các hình thức trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ; điều kiện đối với hàng hóa, dịch vụ trưng bày, giới thiệu; điều kiện đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam để trưng bày, giới thiệu ; các trường hợp cấm trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ ; hợp đồng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ; quyền và nghĩa vụ của bên thuê dịch vụ, của bên cung ứng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ.
Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân dùng hàng hóa, dịch vụ và tài liệu về hàng hóa, dịch vụ để giới thiệu với khách hàng về hàng hóa, dịch vụ đó.
Kinh doanh dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân thực hiện cung ứng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ cho thương nhân khác.
Luật Thương mại năm 2005 có một số nội dung được sửa đổi, bổ sung đáng chú ý gồm:
Thứ nhất, quy định cụ thể về quyền trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ, theo đó: “Thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương nhân Việt Nam, Chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam có quyền trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ; lựa chọn các hình thức trưng bày, giới thiệu phù hợp; tự mình tổ chức hoặc thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ để trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ của mình. Văn phòng đại diện của thương nhân không được trực tiếp trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ của thương nhân do mình đại diện, trừ việc trưng bày, giới thiệu tại trụ sở của Văn phòng đại diện đó. Trong trường hợp được thương nhân ủy quyền, Văn phòng đại diện có quyền ký hợp đồng với thương nhân kinh doanh dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ để thực hiện trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ cho thương nhân mà mình đại diện. Thương nhân nước ngoài chưa được phép hoạt động thương mại tại Việt nam muốn trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ của mình tại Việt Nam phải thuê thương nhân kinh doanh dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ Việt Nam thực hiện.”
Thứ hai, bổ sung quy định về cấm trưng bày hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác để so sánh với hàng hóa, dịch vụ của mình. Theo Điều 123, các trường hợp cấm trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ, bao gồm :
1. Tổ chức trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ hoặc sử dụng hình thức, phương tiện trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ làm phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, cảnh quan, môi trường, sức khỏe con người.
2. Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ hoặc sử dụng hình thức, phương tiện trưng bày, giới thiệu trái với truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam.
3. Trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ làm lộ bí mật nhà nước.
4. Trưng bày, giới thiệu hàng hóa của thương nhân khác để so sánh với hàng hóa của mình, trừ trường hợp hàng hóa đem so sánh là hàng giả, hàng vi phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật.
5. Trưng bày, giới thiệu mẫu hàng hóa không đúng với hàng hóa đang kinh doanh về chất lượng, giá, công dụng, kiểu dáng, chủng loại, bao bì, thời hạn bảo hành và các chỉ tiêu chất lượng khác nhằm lừa dối khách hàng.
4. Hội chợ, triển lãm thương mại
Mục này có 12 điều (từ Điều 129 đến Điều 140), bao gồm các quy định về: hội chợ, triển lãm thương mại; kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại; quyền tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm thương mại; tổ chức hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam và ở nước ngoài ; hàng hóa, dịch vụ trưng bày, giới thiệu tại hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam và ở nước ngoài; bán, tặng hàng hóa, cung ứng dịch vụ tại hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam và ở nước ngoài; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam và ở nước ngoài ; quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại.
Đây cũng là một trong những hoạt động thương mại được điều chỉnh đáng kể so với Luật Thương mại năm 1997, chủ yếu liên quan đến:
Thứ nhất, bãi bỏ sự phân biệt khái niệm về hội chợ thương mại và triển lãm thương mại, vì trên thực tiễn cũng như quy định của pháp luật cũng khó có thể phân biệt được hai hoạt động này. Theo Điều 129: “Hội chợ, triển lãm thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại được thực hiện tập trung trong một thời gian và tại một địa điểm nhất định để thương nhân trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ.”
Thứ hai, quy định rõ quyền tổ chức, tham gia hội chợ triển lãm thương mại của thương nhân, Chi nhánh và Văn phòng đại diện của thương nhân tương tự như đối với hoạt động quảng cáo thương mại và trưng bày giới thiệu hàng hóa. Tuy nhiên, có một điểm bổ sung là thương nhân nước ngoài được trực tiếp tham gia hội chợ, triển lãm thương mại tại Việt Nam (Điều 131).
Thứ ba, bổ sung các quy định quản lý đối với việc tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm thương mại nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước (Điều 132, Điều 133).
Thứ tư, bổ sung quy định về hàng hóa, dịch vụ tham gia hội chợ, triển lãm thương mại và việc bán, tặng hàng hóa, dịch vụ đó trong và sau hội chợ, triển lãm thương mại (Điều 136, Điều 137).
CÁC HOẠT ĐỘNG TRUNG GIAN THƯƠNG MẠI
VÀ MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI CỤ THỂ KHÁC
I. CÁC HOẠT ĐỘNG TRUNG GIAN THƯƠNG MẠI
Các hoạt động trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa và đại lý thương mại.
Chương V. Các hoạt động trung gian thương mại – gồm 4 mục, quy định về: đại diện cho thương nhân; môi giới thương mại; ủy thác mua bán hàng hóa; đại lý thương mại. Các quy định của Chương này kế thừa nhiều nội dung của Luật Thương mại năm 1997, có bổ sung một số điểm phù hợp với thông lệ quốc tế như quyền đòi bồi thường của bên đại lý trong trường hợp bên giao đại lý đơn phương yêu cầu chấm dứt hợp đồng đại lý…
Các hoạt động trung gian thương mại ngày càng trở nên quan trọng từ nửa sau thế kỷ XIX, đặc biệt là khi WTO thúc đẩy tự do hoá thương mại quốc tế. Trong các hoạt động xuất nhập khẩu, các hoạt động trung gian thương mại có một ý nghĩa đặc biệt. Việc khai thác thị trường tiêu thụ bằng chính nhân viên của nhà sản xuất đã trở nên rất hãn hữu. Ngược lại, nhà sản xuất thường tổ chức tiêu thụ sản phẩm của mình thông qua việc sử dụng dịch vụ của người khác và trả thù lao cho họ theo doanh thu. Trong thực tế buôn bán, tuỳ theo điều kiện cụ thể, tuỳ theo sự ràng buộc về vốn, công nghệ, chiến lược kinh doanh và hạn chế cạnh tranh giữa nhà phân phối và nhà sản xuất mà các hoạt động trung gian thương mại cụ thể sẽ được sử dụng hoặc trong nhiều trường hợp là sự kết hợp của nhiều loại hình.
1. Đại diện cho thương nhân
Mục này có 9 điều (từ Điều 141 đến Điều 149), bao gồm các quy định về: đại diện cho thương nhân; hợp đồng đại diện cho thương nhân ; phạm vi đại diện ; thời hạn đại diện cho thương nhân; nghĩa vụ của bên đại diện, của bên giao đại diện; quyền hưởng thù lao đại diện; thanh toán chi phí phát sinh; quyền cầm giữ.
Đại diện cho thương nhân là việc một thương nhân nhận ủy nhiệm (gọi là bên đại diện) của thương nhân khác (gọi là bên giao đại diện) để thực hiện các hoạt động thương mại với danh nghĩa, theo sự chỉ dẫn của thương nhân đó và được hưởng thù lao về việc đại diện.
Luật Thương mại năm 2005 sửa đổi không nhiều vào chế định này. Luật vẫn quy định khá cụ thể về hợp đồng đại diện (Điều 142), phạm vi đại diện (Điều 143), thời hạn đại diện (Điều 144), quyền hưởng thù lao đại diện (Điều 147), quyền cầm giữ (Điều 149), nghĩa vụ của bên đại diện (Điều 145) và nghĩa vụ của bên giao đại diện (Điều 146). Các quy định này thực chất là thừa nhận quy tắc xử sự giữa các thương nhân nên gần như không cần hướng dẫn gì thêm. Đây là những lĩnh vực thể hiện tính chất tư của Luật Thương mại một cách rất rõ nét.
2. Môi giới thương mại
Mục này có 5 điều (từ Điều 150 đến Điều 154), bao gồm các quy định về: môi giới thương mại; nghĩa vụ của bên môi giới thương mại, của bên được môi giới; quyền hưởng thù lao môi giới và thanh toán chi phí phát sinh liên quan đến việc môi giới.
Môi giới thương mại là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ và được hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới.
Luật Thương mại năm 2005 sửa đổi không nhiều vào chế định này. Luật vẫn quy định về nghĩa vụ của bên môi giới thương mại (Điều 151), nghĩa vụ của bên được môi giới (Điều 152), quyền hưởng thù lao môi giới (Điều 153) và thanh toán các chi phí phát sinh liên quan đến việc môi giới (Điều 154). Cũng như chế định về đại diện cho thương nhân, các quy định về môi giới thương mại thực chất cũng là thừa nhận quy tắc xử sự giữa các thương nhân nên gần như không cần hướng dẫn gì thêm.
3. Uỷ thác mua bán hàng hoá (từ Điều 155 đến Điều 165)
Mục này có 11 điều (từ Điều 155 đến Điều 165), bao gồm các quy định về: ủy thác mua bán hàng hóa ; bên nhận ủy thác; bên ủy thác ; hàng hóa ủy thác; hợp đồng ủy thác; ủy thác lại cho bên thứ ba; nhận ủy thác của nhiều bên ; quyền và nghĩa vụ của bên ủy thác, của bên nhận ủy thác.
Ủy thác mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận ủy thác thực hiện việc mua bán hàng hóa với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thỏa thuận với bên ủy thác và được nhận thù lao ủy thác.
Luật Thương mại năm 2005 sửa đổi không nhiều vào chế định này. Luật vẫn quy định về bên nhận uỷ thác (Điều 156), bên uỷ thác (Điều 157), hàng hoá uỷ thác (Điều 158), hợp đồng uỷ thác (Điều 159), quyền và nghĩa vụ của bên uỷ thác (Điều 162, Điều 163), quyền và nghĩa vụ của bên nhận uỷ thác (Điều 164, Điều 165). Cũng như hai chế định trên, chế định uỷ thác mua bán hàng hoá cũng là việc thừa nhận các quy tắc xử sự giữa các thương nhân. Đây cũng là lĩnh vực thể hiện tính chất tư của Luật Thương mại rất rõ nét.
4. Đại lý thương mại
Mục này có 12 điều (từ Điều 166 đến Điều 177), bao gồm các quy định về: đại lý thương mại; bên giao đại lý, bên đại lý; hợp đồng đại lý; các hình thức đại lý; quyền sở hữu trong đại lý thương mại; thù lao đại lý; quyền và nghĩa vụ của bên giao đại lý, của bên đại lý ; thanh toán trong đại lý và thời hạn đại lý.
Đại lý thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thỏa thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao.
Những nội dung sửa đổi, bổ sung chính về đại lý thương mại trong Luật Thương mại năm 2005 so với Luật Thương mại năm 1997 gồm:
Thứ nhất, mở rộng khái niệm đại lý trong thương mại bao gồm cả đại lý mua bán hàng hóa và đại lý cung ứng dịch vụ (Điều 166). Theo đó, các điều khoản có liên quan đều được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với việc mở rộng khái niệm đại lý.
Thứ hai, sửa đổi các nội dung nhằm thể hiện nguyên tắc tự do thỏa thuận của các bên liên quan đến hình thức đại lý, quyền và nghĩa vụ của bên đại lý và bên giao đại lý, hợp đồng đại lý, thù lao đại lý.
Thứ ba, bổ sung quy định về quyền của bên đại lý trong việc ký kết hợp đồng đại lý, theo đó bên đại lý có quyền ký kết hợp đồng đại lý với nhiều bên giao đại lý trừ một số trường hợp theo quy định của pháp luật (Điều 174). Việc bổ sung quy định này nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hiện nay.
Thứ tư, bổ sung quy định về thời hạn đại lý với quan điểm bảo vệ quyền lợi của bên đại lý trong trường hợp bên giao đại lý chấm dứt hợp đồng đại lý (Điều 177). Trên thực tế, bên đại lý khi làm đại lý thương mại phải đầu tư ban đầu về nhân lực, vật lực để mở thị trường cho hàng hóa, dịch vụ của bên giao đại lý. Vì vậy, trong trường hợp không có thỏa thuận thì thời hạn đại lý chỉ được chấm dứt sau một thời gian hợp lý kể từ khi một trong hai bên đề nghị chấm dứt hợp đồng đại lý. Trường hợp bên giao đại lý đề nghị chấm dứt hợp đồng thì bên giao đại lý phải bồi thường cho bên đại lý một khoản tiền theo quy định của pháp luật.
II. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI CỤ THỂ KHÁC
Chương VI. Một số hoạt động thương mại cụ thể khác – gồm 8 mục, quy định về Gia công trong thương mại; Đấu giá hàng hóa; Đấu thầu hàng hóa, dịch vụ; Dịch vụ logistics; Quá cảnh hàng hóa qua lãnh thổ Việt Nam và dịch vụ quá cảnh hàng hóa; Dịch vụ giám định; Cho thuê hàng hóa; Nhượng quyền thương mại.
Những hoạt động thương mại cụ thể được quy định trong Chương này được xây dựng theo nguyên tắc tôn trọng quyền tự do, tự nguyện thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng. Những quy định về hình thức của hợp đồng cũng đã được xem xét, đánh giá và chỉ quy định hợp đồng trong một số hoạt động thương mại cụ thể là phải bắt buộc bằng văn bản. Trong Chương này, một số hoạt động thương mại mới được bổ sung để phù hợp với đòi hỏi thực tiễn như: dịch vụ logistics; quá cảnh hàng hóa qua lãnh thổ Việt Nam và dịch vụ quá cảnh hàng hóa; dịch vụ cho thuê hàng hóa và nhượng quyền thương mại.
1. Gia công trong thương mại
Mục này có 7 điều (từ Điều 178 đến Điều 184), bao gồm các quy định về: gia công trong thương mại; hợp đồng gia công; hàng hóa gia công; quyền và nghĩa vụ của bên đặt gia công, của bên nhận gia công; thù lao gia công và chuyển giao công nghệ trong gia công với tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Gia công trong thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công để hưởng thù lao.
Tất cả các loại hàng hóa đều có thể được gia công, trừ trường hợp hàng hóa thuộc diện cấm kinh doanh. Trường hợp gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài để tiêu thụ ở nước ngoài thì hàng hóa thuộc diện cấm kinh doanh, cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu có thể được gia công nếu được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
Luật Thương mại năm 2005 sửa đổi không nhiều vào chế định này. Luật vẫn quy định về hàng hoá gia công (Điều 180); quyền và nghĩa vụ của bên đặt gia công (Điều 181); quyền và nghĩa vụ của bên nhận gia công (Điều 182); thù lao gia công (Điều 183) và chuyển giao công nghệ trong gia công với tổ chức, cá nhân nước ngoài (Điều 184).
2. Đấu giá hàng hoá
Mục này có 29 điều (từ Điều 185 đến Điều 213), bao gồm các quy định liên quan đến hoạt động đấu giá hàng hoá.
Có thể coi chế định đấu giá hàng hóa là chế định mới bổ sung, vì Luật Thương mại năm 1997 chỉ có 2 điều quy định về đấu giá hàng hóa. Luật Thương mại năm 2005 đã bổ sung tới 27 điều để điều chỉnh hoạt động đấu giá hàng hóa.
Đấu giá hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai để chọn người mua trả giá cao nhất.
Việc đấu giá hàng hóa trong thương mại phải được thực hiện theo nguyên tắc công khai, trung thực, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia.
Các bên tham gia vào hoạt động đấu giá hàng hóa (người tổ chức đấu giá, người bán hàng, người tham gia đấu giá, người điều hành đấu giá) được quy định tại các điều : 186 và 187. Quyền và nghĩa vụ của những người này được quy định tại các điều : 189, 190, 191 và 192.
Hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hóa được quy định tại Điều 193. Việc xác định giá khởi điểm được quy định tại Điều 194, theo đó:Người bán hàng phải xác định giá khởi điểm; trong trường hợp người tổ chức đấu giá được ủy quyền xác định giá khởi điểm thì phải thông báo cho người bán hàng trước khi niêm yết việc bán đấu giá; trường hợp hàng hóa đấu giá là đối tượng cầm cố, thế chấp thì người nhận cầm cố, thế chấp phải thỏa thuận với người cầm cố, thế chấp xác định giá khởi điểm; trường hợp trong hợp đồng cầm cố, thế chấp có thỏa thuận về việc bán đấu giá mà người cầm cố, thế chấp vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc từ chối giao kết hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hóa thì giá khởi điểm do người nhận cầm cố, thế chấp xác định.
Việc thông báo cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến hàng hóa là đối tượng cầm cố, thế chấp; thời hạn thông báo và niêm yết đấu giá hàng hóa; nội dung thông báo và niêm yết đấu giá hàng hóa được quy định cụ thể tại các Điều 195, 196 và 197.
Việc đăng ký tham gia đấu giá và trưng bày hàng hóa đấu giá được quy định cụ thể tại Điều 199 và Điều 200.
Theo quy định của Điều 198, những người không được tham gia đấu giá bao gồm :
– Người không có năng lực hành vi dân sự, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc người tại thời điểm đấu giá không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.
– Những người làm việc trong tổ chức bán đấu giá hàng hóa; cha, mẹ, vợ, chồng, con của những người đó.
– Người đã trực tiếp thực hiện việc giám định hàng hóa bán đấu giá; cha, mẹ, vợ, chồng, con của người đó.
– Những người không có quyền mua hàng hóa đấu giá theo quy định của pháp luật.
Cuộc đấu giá được tiến hành theo trình tự sau đây:
– Người điều hành đấu giá điểm danh người đã đăng ký tham gia đấu giá hàng hóa;
– Người điều hành đấu giá giới thiệu từng hàng hóa bán đấu giá, nhắc lại giá khởi điểm, trả lời các câu hỏi của người tham gia đấu giá và yêu cầu người tham gia đấu giá trả giá;
– Đối với phương thức trả giá lên, người điều hành đấu giá phải nhắc lại một cách rõ ràng, chính xác giá đã trả sau cùng cao hơn giá người trước đã trả ít nhất là ba lần, mỗi lần cách nhau ít nhất ba mươi giây. Người điều hành đấu giá chỉ được công bố người mua hàng hóa bán đấu giá, nếu sau ba lần nhắc lại giá người đó đã trả mà không có người nào trả giá cao hơn;
– Đối với phương thức đặt giá xuống, người điều hành đấu giá phải nhắc lại một cách rõ ràng, chính xác từng mức giá được hạ xuống thấp hơn giá khởi điểm ít nhất là ba lần, mỗi lần cách nhau ít nhất ba mươi giây. Người điều hành đấu giá phải công bố ngay người đầu tiên chấp nhận mức giá khởi điểm hoặc mức giá hạ thấp hơn mức giá khởi điểm là người có quyền mua hàng hóa đấu giá;
– Trường hợp có nhiều người đồng thời trả mức giá cuối cùng đối với phương thức trả giá lên hoặc mức giá đầu tiên đối với phương thức đặt giá xuống, người điều hành đấu giá phải tổ chức rút thăm giữa những người đó và công bố người rút trúng thăm được mua là người mua hàng hóa bán đấu giá;
– Người điều hành đấu giá phải lập văn bản bán đấu giá hàng hóa ngay tại cuộc đấu giá, kể cả trong trường hợp đấu giá không thành. Văn bản bán đấu giá phải ghi rõ kết quả đấu giá, có chữ ký của người điều hành đấu giá, người mua hàng và hai người chứng kiến trong số những người tham gia đấu giá; đối với hàng hóa bán đấu giá phải có công chứng nhà nước theo quy định của pháp luật thì văn bản bán đấu giá cũng phải được công chứng.
Cuộc đấu giá được coi là không thành trong các trường hợp sau đây:
– Không có người tham gia đấu giá, trả giá;
– Giá cao nhất đã trả thấp hơn mức giá khởi điểm đối với phương thức trả giá lên.
Các điều từ Điều 203 đến Điều 213 quy định về các vấn đề khác của hoạt động đấu giá hàng hóa: văn bản bán đấu giá hàng hóa ; rút lại giá đã trả; từ chối mua; đăng ký quyền sở hữu; thời điểm thanh toán tiền mua hàng hóa; địa điểm thanh toán tiền mua hàng hóa; thời hạn giao hàng hóa bán đấu giá; địa điểm giao hàng hóa bán đấu giá; thù lao dịch vụ đấu giá hàng hóa; chi phí liên quan đến đấu giá hàng hóa và trách nhiệm đối với hàng hóa bán đấu giá không phù hợp với thông báo, niêm yết.
3. Đấu thầu hàng hoá, dịch vụ
Mục này có 19 điều (từ Điều 214 đến Điều 232), bao gồm các quy định về: đấu thầu hàng hóa, dịch vụ; hình thức đấu thầu; phương thức đấu thầu; sơ tuyển các bên dự thầu; hồ sơ mời thầu; thông báo mời thầu; chỉ dẫn cho bên dự thầu; quản lý hồ sơ dự thầu; bảo đảm dự thầu; bảo mật thông tin đấu thầu; mở thầu; xét hồ sơ dự thầu khi mở thầu; biên bản mở thầu; đánh giá và so sánh hồ sơ dự thầu; sửa đổi hồ sơ dự thầu; xếp hạng và lựa chọn nhà thầu; thông báo kết quả đấu thầu và ký kết hợp đồng; bảo đảm thực hiện hợp đồng; đấu thầu lại.
Luật Thương mại năm 1997 có 22 điều quy định về đấu thầu hàng hóa. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định về đấu thầu trong Luật Thương mại năm 2005 bao gồm những nội dung chính sau:
Thứ nhất, mở rộng khái niệm đấu thầu trong thương mại bao gồm đấu thầu hàng hóa và đấu thầu dịch vụ. Theo khoản 1 Điều 214, “Đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên mua hàng hóa, dịch vụ thông qua mời thầu (gọi là bên mời thầu) nhằm lựa chọn trong số các thương nhân tham gia đấu thầu (gọi là bên dự thầu) thương nhân đáp ứng tốt nhất các yêu cầu do bên mời thầu đặt ra và được lựa chọn để ký kết và thực hiện hợp đồng (gọi là bên trúng thầu).”
Thứ hai, xác định rõ những hoạt động đấu thầu trong mua sắm có sử dụng nguồn vốn nhà nước hoặc có nguồn gốc từ Nhà nước (bao gồm mua sắm công, mua sắm của doanh nghiệp nhà nước) không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này (khoản 2 Điều 214).
Thứ ba, do quy định về đấu thầu trong hoạt động thương mại chủ yếu là do thương nhân thực hiện và không áp dụng cho hoạt động đấu thầu trong mua sắm sử dụng nguồn vốn nhà nước hoặc có nguồn gốc Nhà nước, vì vậy, những quy định về đấu thầu trong Luật được xây dựng theo nguyên tắc tăng cường quyền tự chủ của thương nhân và đơn giản hóa các quy định về thủ tục, giấy tờ phải thực hiện trong quá trình đấu thầu.
Khác với mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ nói chung, đấu thầu hàng hoá, dịch vụ là một tiến trình mua hàng hoá, dịch vụ theo một quy chế riêng biệt nhằm chọn lựa nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo những yêu cầu về kỹ thuật, công nghệ, giá cả và những yêu cầu khác của bên mua hàng. Nói một cách khác, đấu thầu là một quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu về giá cả, điều kiện kinh tế- kỹ thuật do bên mời thầu đặt ra trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu.
Theo quy định của Luật Thương mại năm 2005, đấu thầu hàng hoá, dịch vụ có những bước sau đây:
– Mời thầu và dự thầu (Điều 218, Điều 219)
– Mở thầu và xét chọn nhà thầu (từ Điều 224 đến Điều 229)
– Công bố trúng thầu và ký kết hợp đồng (Điều 230)
4. Dịch vụ logistics
Mục này có 8 điều (từ Điều 233 đến Điều 240), bao gồm các quy định về: dịch vụ logistics ; điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics ; quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics ; quyền và nghĩa vụ của khách hàng; các trường hợp miễn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics; giới hạn trách nhiệm; quyền cầm giữ và định đoạt hàng hóa và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics khi cầm giữ hàng hóa.
Trước đây, hàng hoá đi từ nước người bán đến nước người mua thường dưới hình thức hàng lẻ, phải qua tay nhiều người vận tải và nhiều phương thức vận tải khác nhau. Xác suất rủi ro mất mát đối với hàng hoá do vậy rất lớn, người gửi hàng phải ký nhiều hợp đồng vận tải riêng biệt với từng người vận tải thực sự, trách nhiệm của mỗi người vận tải theo đó chỉ giới hạn trong chặng đường hay dịch vụ do người đó đảm nhiệm mà thôi.
Ngày nay, để tiết kiệm chi phí vận chuyển hàng hoá, kể cả việc giảm tối đa các chi phí đầu mối giao dịch, các nhà sản xuất, các thương gia, khách hàng thường uỷ thác cho một người thu xếp việc vận tải từ nơi sản xuất đến thị thường tiêu thụ( trong giao nhận thường được gọi là từ cửa tới cửa- door to door). Trong tập quán thương mại, trong các điều kiện giao hàng hiện nay người mua cũng yêu cầu chỉ dùng một chứng từ vận tải. Vì vậy, từ vận tải liên hợp (đường ô tô, đường sắt, đường biển,…) gồm nhiều chứng từ vận tải đã phải chuyển sang vận tải đa phương thức.
Để phù hợp với quá trình phát triển của cách mạnh container hoá và nhu cầu phát triển giao nhận vận tải, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 125/2003/NĐ-CP ngày 26/10/2003 quy định vận tải đa phương thức quốc tế phải thoả mãn 3 điều kiện: phải sử dụng ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau; phải sử dụng một chứng từ vận tải hay nói cách khác là chỉ có một hợp đồng vận tải và việc vận chuyển hàng hoá phải đi từ nước này sang nước khác.
Vì vậy, Logistics không phải là một dịch vụ đơn lẻ, thuật ngữ này bao giờ cũng ở dạng số nhiều. Logistics luôn là một chuỗi các dịch vụ về giao nhận hàng hoá. Dịch vụ Logistics chính là sự phát triển ở giai đoạn cao của các khâu dịch vụ giao nhận kho vận trên cơ sở tận dụng các ưu điểm của công nghệ thông tin để điều phối hàng hoá từ khâu tiền sản xuất tới tận tay người tiêu dùng cuối cùng qua các công đoạn vận chuyển, lưu kho và phân phát hàng hoá.
So với 9 điều được quy định trong Luật Thương mại năm 1997 thì về cơ bản, Luật Thương mại lần này không có thay đổi nhiều nhưng về nội dung thì có sự thay đổi đáng lưu ý sau: đổi tên của Mục là dịch vụ logistic và mở rộng khái niệm giao nhận hàng hóa tương đương với khái niệm dịch vụ “logistics”. Khái niệm này đã được thừa nhận rộng rãi trong thương mại quốc tế, trong đó giao nhận chỉ là một khâu của dịch vụ này.
5. Quá cảnh hàng hoá qua lãnh thổ Việt Nam và dịch vụ quá cảnh hàng hoá
Quá cảnh hàng hóa qua lãnh thổ Việt Nam và dịch vụ quá cảnh hàng hóa được quy định tại Mục này là hoạt động thương mại mới được bổ sung vào Luật Thương mại năm 2005 trên cơ sở luật hóa những quy định về quá cảnh hàng hóa hiện hành và phù hợp với nguyên tắc của WTO (Điều 5 GATT 1994). Mục này có 13 điều (từ Điều 241 đến Điều 253).Một số quy định cơ bản trong Mục này gồm:
– Quá cảnh hàng hóa là việc vận chuyển hàng hóa thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân nước ngoài qua lãnh thổ Việt Nam, kể cả việc trung chuyển, chuyển tải, lưu kho, chia tách lô hàng, thay đổi phương thức vận tải hoặc các công việc khác được thực hiện trong thời gian quá cảnh.
Dịch vụ quá cảnh hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân thực hiện việc quá cảnh cho hàng hóa thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân nước ngoài qua lãnh thổ Việt Nam để hưởng thù lao.
Thương nhân kinh doanh dịch vụ quá cảnh phải là doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh dịch vụ vận tải, kinh doanh dịch vụ logistics theo quy định tại Điều 234 của Luật này.
– Khẳng định quyền tự do quá cảnh trong hoạt động thương mại quốc tế. Tất cả hàng hoá mà nhà nước không cấm của tổ chức, cá nhân nước ngoài đều được quá cảnh lãnh thổ Việt Nam (trừ trường hợp được Bộ trưởng Bộ Thương mại cho phép) và hàng hoá đó chỉ cần làm thủ tục hải quan tại cửa khẩu nhập khẩu và cửa khẩu xuất khẩu. Nhưng tổ chức, cá nhân nước ngoài muốn quá cảnh hàng hoá qua lãnh thổ Việt Nam phải thuê thương nhân Việt Nam kinh doanh dịch vụ quá cảnh thực hiện.
– Đưa ra một số quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc cung ứng dịch vụ quá cảnh hàng hoá.
– Quy định một số vấn đề liên quan đến quá cảnh như hàng hóa quá cảnh, tuyến đường quá cảnh, thời gian và thủ tục quá cảnh phù hợp với các điều ước quốc tế và thực tiễn của Việt Nam. Trên cơ sở những quy định này, Chính phủ sẽ ban hành những quy định cụ thể.
6. Dịch vụ giám định
Mục này có 15 điều (từ Điều 254 đến Điều 268), bao gồm các quy định về: dịch vụ giám định ; nội dung giám định; thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định thương mại; điều kiện kinh doanh dịch vụ giám định thương mại; phạm vi kinh doanh dịch vụ giám định thương mại; tiêu chuẩn giám định viên; chứng thư giám định; giá trị pháp lý của chứng thư giám định đối với bên yêu cầu giám định; giá trị pháp lý của chứng thư giám định đối với các bên trong hợp đồng; quyền và nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định; quyền và nghĩa vụ của khách hàng ; phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại trong trường hợp kết quả giám định sai ; ủy quyền giám định và giám định theo yêu cầu của cơ quan nhà nước.
Nội dung của Mục này cũng có sự thay đổi đáng kể so với những quy định trong Luật Thương mại năm 1997, cụ thể là:
Thứ nhất, mở rộng khái niệm giám định không chỉ bao gồm giám định hàng hóa mà còn gồm cả giám định dịch vụ (Điều 254). Nội dung giám định được xác định cụ thể trong Luật để tạo điều kiện cho việc áp dụng (Điều 255).
Thứ hai, một số quy định được bổ sung nhằm tăng cường năng lực của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định để nâng cao chất lượng của hoạt động này trên thị trường. Do đó, Luật đã bổ sung những quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ giám định (Điều 257), phạm vi kinh doanh dịch vụ giám định (Điều 258), tiêu chuẩn giám định viên (Điều 259).
Thứ ba, nghĩa vụ của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định đối với kết quả giám định do mình thực hiện cũng được quy định vừa thông thoáng hơn, vừa chặt chẽ hơn bằng việc bổ sung các quy định về giá trị của chứng thư giám định, quyền và nghĩa vụ của khách hàng. Nghĩa vụ chịu phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại trong trường hợp kết quả giám định sai đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tính chất của hoạt động giám định nhưng cũng tăng cường trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định đối với khách hàng trong trường hợp cố ý giám định sai (Điều 266).
7. Cho thuê hàng hoá
Mục này có 15 điều (từ Điều 269 đến Điều 283), bao gồm các quy định về: cho thuê hàng hóa; quyền và nghĩa vụ của bên cho thuê, của bên thuê; sửa chữa, thay đổi tình trạng ban đầu của hàng hóa cho thuê ; trách nhiệm đối với tổn thất trong thời hạn thuê ; chuyển rủi ro đối với hàng hóa cho thuê ; hàng hóa cho thuê không phù hợp với hợp đồng; từ chối nhận hàng; khắc phục, thay thế hàng hóa cho thuê không phù hợp với hợp đồng; chấp nhận hàng hóa cho thuê; rút lại chấp nhận; trách nhiệm đối với khiếm khuyết của hàng hóa cho thuê ; cho thuê lại; lợi ích phát sinh trong thời hạn thuê; thay đổi quyền sở hữu trong thời hạn thuê.
Cho thuê hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó một bên chuyển quyền chiếm hữu và sử dụng hàng hóa (gọi là bên cho thuê) cho bên khác (gọi là bên thuê) trong một thời hạn nhất định để nhận tiền cho thuê.
Đây là hoạt động thương mại được bổ sung mới vào Luật Thương mại năm 2005. Thực tế hoạt động thương mại hiện nay cho thấy, cho thuê hàng hóa là một hoạt động diễn ra ngày càng phổ biến nhưng Luật Thương mại năm 1997 lại chưa có quy định cụ thể điều chỉnh hoạt động thương mại này. Bộ luật Dân sự cũng chỉ đưa ra những quy định chung về hợp đồng cho thuê tài sản và chưa đủ để điều chỉnh hoạt động cho thuê hàng hóa trên thị trường.
Do đó, Luật Thương mại năm 2005 đã bổ sung quy định về hoạt động cho thuê hàng hóa với 15 điều. Những quy định về cho thuê hàng hoá này là khá tương đồng với các quy định tại Bộ Luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ (UCC), và Luật Hợp đồng Trung Quốc. Đây là những quy định được đánh giá là khá chuẩn mực về hoạt động thương mại này.
8. Nhượng quyền thương mại
Về lịch sử hình thành, phương thức kinh doanh nhượng quyền thương mại đã ra đời và phát triển từ những năm 50 của thế kỷ XIX, phát triển mạnh mẽ và trở nên rất phổ biến tại các nước phát triển như Hoa Kỳ, các nước cộng đồng Châu Âu, Australia. Trong những năm gần đây, các công ty đa quốc gia có hoạt động kinh doanh theo phương thức nhượng quyền đã bắt đầu có mặt tại các nước đang phát triển, như Mc Donald’s đã có mặt tại Trung Quốc với hệ thống hàng chục cửa hàng bán đồ ăn nhanh tại các thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải…Ngay bản thân các nước đang phát triển ở Châu Á và Châu Mỹ Latinh, phương thức này đã bùng nổ trong những thập niên 80 của thế kỷ XX.
Hiện nay, ở Việt Nam hoạt động nhượng quyền thương mại tuy chưa trở nên phổ biến nhưng cũng bắt đầu xuất hiện và có xu thế phát triển sôi động. Theo số liệu thống kê của Hội đồng nhượng quyền thế giới (WFC), ở Việt Nam đã có 70 hệ thống nhượng quyền hoạt động. Tất nhiên, đa số hệ thống nhượng quyền của Việt Nam chỉ là dạng nhượng quyền sản phẩm (ví dụ như cửa hàng bán nước giải khát, cây xăng, đại lý bảo hành ô tô, xe máy,…). Các hệ thống nhượng quyền theo kiểu nhượng quyền công thức kinh doanh còn khá mới mẻ. Cụ thể là Hãng Cà phê Trung Nguyên được thành lập tháng 6/1996 thì đến tháng 10/1998 phát triển điểm kinh doanh nhượng quyền đầu tiên và đến nay Trung Nguyên đã có hơn 1000 điểm kinh doanh nhượng quyền. Trung Nguyên cũng đã bán nhượng quyền sang Nhật Bản, Campuchia, Thái Lan, Singapore và đang có kế hoạch phát triển sang Mỹ và Australia. Hay có thể kể đến Kinh Đô với sản phẩm bánh ngọt. Tập đoàn này có 10 công ty thành viên với 200 nhà phân phối và 65 000 điểm bán lẻ. Kinh Đô mới phát triển sang kinh doanh nhượng quyền và hiện nay đã có 25 điểm. Theo thông báo của Kinh Đô thì tập đoàn này dự kiến phát triển được 100 điểm kinh doanh nhượng quyền trong 3 năm tới. Một ví dụ nữa là Phở 24. Tháng 6/2003, Phở 24 được thành lập và đến nay đã phát triển được 12 điểm kinh doanh nhượng quyền trên toàn quốc. Công ty này có kế hoạch phát triển được 20 điểm nữa trong năm 2005 và 100 điểm trong năm 2006 kể cả trong và ngoài nước.
Dưới góc độ pháp lý, quan hệ nhượng quyền thương mại là mối quan hệ hợp đồng giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Tuy nhiên, ngoài quan hệ hợp đồng quan hệ nhượng quyền thương mại còn liên quan đến các quan hệ pháp luật khác như pháp luật về phân phối, đại diện, tài chính, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, lao động, pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng…
Hoạt động nhượng quyền thương mại được quy định tại Mục 8 Chương VI Luật Thương mại năm 2005. Mục này có 8 điều (từ Điều 284 đến Điều 291), bao gồm các quy định về: nhượng quyền thương mại; hợp đồng nhượng quyền thương mại; quyền và nghĩa vụ của thương nhân trong quan hệ nhượng quyền; nhượng quyền lại cho bên thứ ba; đăng ký nhượng quyền thương mại.
Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
– Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;
– Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.
Trước khi nhượng quyền thương mại, bên dự kiến nhượng quyền phải đăng ký với Bộ Thương mại. Chính phủ quy định chi tiết điều kiện kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại và trình tự, thủ tục đăng ký nhượng quyền thương mại.
CHẾ TÀI TRONG THƯƠNG MẠI
VÀ MỘT SỐ QUY ĐỊNH KHÁC
1. Chế tài trong thương mại
Mục 1 Chương VII – Chế tài trong thương mại và giải quyết tranh chấp trong thương mại – có 26 điều (từ Điều 292 đến Điều 316), quy định về các loại chế tài trong thương mại, đó là các chế tài sau:
1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng.
2. Phạt vi phạm.
3. Buộc bồi thường thiệt hại.
4. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng.
5. Đình chỉ thực hiện hợp đồng.
6. Hủy bỏ hợp đồng.
7. Các biện pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế.
Như vậy, so với Luật Thương mại năm 1997, Luật Thương mại năm 2005 đã bổ sung thêm hai loại chế tài là tạm ngừng thực hiện hợp đồng và đình chỉ thực hiện hợp đồng.
Theo Điều 308,trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật Thương mại năm 2005, tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng;
2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Theo Điều 310, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật Thương mại năm 2005, đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng;
2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Một bổ sung quan trọng trong Luật Thương mại năm 2005 là phân biệt rõ khái niệm “vi phạm cơ bản” với khái niệm “vi phạm” nói chung. Theo quy định tại Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 thì: “Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này”; còn “Vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.” Việc tách bạch các khái niệm này là cơ sở quan trọng để quyết định việc áp dụng các chế tài trong thương mại. Việc bổ sung này phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế và thực tiễn hoạt động thương mại của Việt Nam.
Điều quan trọng nhất là Luật Thương mại năm 2005 đã thừa nhận các biện pháp chế tài khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế. Mối quan hệ giữa các chế tài cũng được xác định rõ để tạo thuận lợi cho việc áp dụng. Các chế tài như tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy hợp đồng chỉ áp dụng đối với vi phạm cơ bản. Mối quan hệ giữa các chế tài cũng được xác định rõ để tạo thuận lợi cho việc áp dụng.
2. Giải quyết tranh chấp trong thương mại
Mục 2 Chương VII – Chế tài trong thương mại và giải quyết tranh chấp trong thương mại – có 3 điều (từ Điều 317 đến Điều 319), quy định về: hình thức giải quyết tranh chấp ; thời hạn khiếu nại và thời hiệu khởi kiện.
Theo quy định tại Điều 317, có 3 hình thức giải quyết tranh chấp trong thương mại, đó là: thương lượng giữa các bên; hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải và giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án. Thủ tục giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Trọng tài được tiến hành theo các thủ tục tố tụng của Trọng tài. Thủ tục giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Tòa án được tiến hành theo các thủ tục tố tụng do pháp luật quy định.
Về thời hạn khiếu nại, Điều 318 quy định:thời hạn khiếu nại do các bên thỏa thuận, nếu các bên không có thỏa thuận thì thời hạn khiếu nại được quy định như sau:
– Ba tháng, kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về số lượng hàng hóa;
– Sáu tháng, kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về chất lượng hàng hóa; trong trường hợp hàng hóa có bảo hành thì thời hạn khiếu nại là ba tháng, kể từ ngày hết thời hạn bảo hành;
– Chín tháng, kể từ ngày bên vi phạm phải hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc trong trường hợp có bảo hành thì kể từ ngày hết thời hạn bảo hành đối với khiếu nại về các vi phạm khác.
Riêng khiếu nại đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics, thì thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics phải nhận được thông báo về khiếu nại trong thời hạn mười bốn ngày, kể từ ngày thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics giao hàng cho người nhận.
Thời hiệu khởi kiện áp dụng đối với các tranh chấp thương mại là hai năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp sau khi bị khiếu nại, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không nhận được thông báo về việc bị kiện tại Trọng tài hoặc Toà án trong thời hạn chín tháng, kể từ ngày giao hàng.
Như vậy, về cơ bản, Luật năm 2005 giữ nguyên các quy định về giải quyết tranh chấp trong thương mại của Luật Thương mại năm 1997, chỉ có sửa đổi một số nội dung cho phù hợp với thực tiễn.
3. Xử lý vi phạm pháp luật về thương mại
Chương VIII – Xử lý vi phạm pháp luật về thương mại – có 3 điều, quy định về: hành vi vi phạm pháp luật về thương mại; hình thức xử lý vi phạm pháp luật về thương mại và xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại.
Các hành vi vi phạm pháp luật về thương mại bao gồm:
– Vi phạm quy định về đăng ký kinh doanh; giấy phép kinh doanh của thương nhân; thành lập và hoạt động của Văn phòng đại diện, Chi nhánh của thương nhân Việt Nam và của thương nhân nước ngoài;
– Vi phạm quy định về hàng hóa, dịch vụ kinh doanh trong nước và hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu; tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập; chuyển khẩu; quá cảnh;
– Vi phạm chế độ thuế, hóa đơn, chứng từ, sổ và báo cáo kế toán;
– Vi phạm quy định về giá hàng hóa, dịch vụ;
– Vi phạm quy định về ghi nhãn hàng hóa lưu thông trong nước và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;
– Buôn lậu, kinh doanh hàng nhập lậu, buôn bán hàng giả hoặc nguyên liệu, vật liệu phục vụ cho sản xuất hàng giả, kinh doanh trái phép;
– Vi phạm các quy định liên quan đến chất lượng hàng hóa, dịch vụ kinh doanh trong nước và hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu;
– Gian lận, lừa dối khách hàng khi mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
– Vi phạm các quy định liên quan đến bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng;
– Vi phạm quy định về quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa, dịch vụ kinh doanh trong nước và xuất khẩu, nhập khẩu;
– Vi phạm quy định về xuất xứ hàng hóa;
– Các vi phạm khác trong hoạt động thương mại theo quy định của pháp luật.
Chính phủ quy định cụ thể các hành vi vi phạm pháp luật về thương mại kể trên.
Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm và hậu quả xảy ra, tổ chức, cá nhân bị xử lý theo một trong các hình thức: xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; trường hợp hành vi vi phạm có đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì người vi phạm bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Nếu hành vi vi phạm gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Chính phủ quy định cụ thể về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại.
4. Điều khoản thi hành
Chương IX – Điều khoản thi hành – có 2 điều (Điều 323 và Điều 324), quy định về hiệu lực thi hành và về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành.
Theo đó, Luật Thương mại năm 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2006 và thay thế cho Luật Thương mại năm 1997. Chính phủ có trách nhiệm quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thương mại năm 2005.
Thực hiện nhiệm vụ này, Chính phủ đã giao cho Bộ Thương mại và một số bộ, ngành khác chủ trì việc xây dựng các nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thương mại năm 2005. Cụ thể, Chính phủ đã giao cho Bộ Thương mại chủ trì việc xây dựng các nghị định sau:
- Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều về kinh doanh dịch vụ giám định thương mại;
- Nghị định về hoạt động mua bán hàng hoá qua Sở giao dịch hàng hoá;
- Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại năm 2005 về doanh nghiệp thương mại có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam;
- Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại năm 2005 về Văn phòng đại diện, Chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam;
- Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại năm 2005 về nhượng quyền thương mại;
- Nghị định về chính sách phát triển thương mại miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc;
- Nghị định về hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ hạn chế kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ kinh doanh có điều kiện;
- Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại năm 2005 về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu, quá cảnh, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài;
- Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại năm 2005 về xúc tiến thương mại;
- Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại năm 2005 về xuất xứ hàng hoá;
- Nghị định về hoạt động thương mại điện tử;
- Nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại.
Bộ Thương mại, cùng các cơ quan hữu quan, đang khẩn trương thực hiện việc xây dựng các nghị định kể trên (và một số nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thương mại năm 2005 khác), nhằm sớm trình Chính phủ xem xét, ban hành.
CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHỈ THỊ SỐ 32-CT/TW CỦA BAN BÍ THƯ
VỀ TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG CÔNG TÁC PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT, NÂNG CAO Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CỦA CÁN BỘ, NHÂN DÂN
Trong những năm qua, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, coi đó là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong việc tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật. Với sự nỗ lực và cố gắng của các cấp, các ngành, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã có những chuyển biến tích cực, góp phần xây dựng ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của cán bộ và nhân dân. Tuy nhiên, sự quan tâm lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được tập trung đúng mức; trách nhiệm của các cấp, các ngành đối với công tác này chưa được xác định cụ thể, rõ ràng nên kết quả đạt được còn thấp so với yêu cầu, sự hiểu biết pháp luật của cán bộ và nhân dân còn nhiều hạn chế
Trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần được tăng cường thường xuyên, liên tục và ở tầm cao hơn, nhằm làm cho cán bộ và nhân dân hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, thông qua đó mà kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật.
Để đẩy mạnh công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật trong thực tế, Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp, các ngành thực hiện tốt một số công tác sau đây:
1- Xác định rõ phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong những năm tới, cần tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện thật tốt công tác này để góp phần tạo chuyển biến căn bản về ý thức tôn trọng pháp luật và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân.
2- Các cấp uỷ đảng có trách nhiệm lãnh đạo chính quyền các cấp tổ chức thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật với nội dung, hình thức, phương pháp phù hợp với địa bàn và đối tượng khác nhau; xây dựng kế hoạch, chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật thiết thực cho các cấp, các ngành, các cơ quan, doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ. Mỗi cán bộ, đảng viên phải xác định việc tìm hiểu, học tập pháp luật là nhiệm vụ thường xuyên, là một trong những tiêu chuẩn đánh giá cán bộ, đảng viên; thông qua việc gương mẫu chấp hành pháp luật của cán bộ, đảng viên mà thuyết phục, giáo dục quần chúng, thành viên trong gia đình ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật.
3. Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo việc phổ biến kịp thời và đầy đủ các luật mới được thông qua đến cán bộ và nhân dân, nhất là những quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Khi tiếp xúc với cử tri sau mỗi kỳ họp Quốc hội, các đại biểu Quốc hội, trước hết là các đại biểu chuyên trách có trách nhiệm giới thiệu các luật mới được thông qua.
4. Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên về phổ biến, giáo dục pháp luật, đặc biệt là Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2003 đến năm 2007 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; chuẩn bị kế hoạch, chương trình dài hạn về phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhiều năm sau.
Tiếp tục kiện toàn, đẩy mạnh hoạt động của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp và hoạt động của các cơ quan có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật. Phân công nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Bộ, ngành nào chủ trì dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thì bộ, ngành đó phải chịu trách nhiệm chính về việc phổ biến và thực hiện văn bản pháp luật đó trong cán bộ, công chức của bộ, ngành mình; đồng thời, có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp, các đoàn thể ở Trung ương và chính quyền các cấp triển khai phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ và nhân dân. Cần bố trí một khoản ngân sách cần thiết cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; có chính sách trợ giá các loại sách, tài liệu phục vụ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, hoặc phát miễn phí các loại sách và tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân, nhất là nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
5. Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội lãnh đạo đoàn thể, tổ chức của mình chủ động và tích cực phối hợp với các cơ quan nhà nước thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đoàn viên, hội viên, cộng tác viên; tuyên truyền, giáo dục và có các biện pháp vận động nhằm nâng cao hiểu biết về pháp luật, tạo thói quen nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; biểu dương, nhân rộng gương người tốt, việc tốt; giám sát việc thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức; kịp thời tập hợp ý kiến của nhân dân trong các đợt đóng góp ý kiến cho các dự án luật và trong việc thực hiện pháp luật để phản ánh, kiến nghị với các tổ chức đảng và các cơ quan nhà nước.
6. Các cơ quan thông tin đại chúng ở Trung ương và địa phương phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng và thực hiện kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng các chuyên mục, chuyên trang về pháp luật với hình thức phong phú, sinh động; tăng thời lượng nội dung tuyên truyền, phổ biến pháp luật bằng tiếng Việt và tiếng các dân tộc thiểu số. Phát triển và nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ đội ngũ phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên viết về pháp luật, bảo đảm tuyên truyền đúng đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
7. Tăng cường đổi mới các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật (đưa pháp luật vào giảng dạy trong nhà trường, xuất bản các tài liệu phổ thông về pháp luật; sử dụng hệ thống đài truyền thanh ở cơ sở, tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn…), đa dạng cách thức phổ biến, giáo dục pháp luật như tăng cường xuất bản và phát hành sách hỏi đáp pháp luật (kể cả sách song ngữ), tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, hoà giải, giải quyết khiếu nại, tố cáo… Củng cố, tăng cường đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật và tạo những điều kiện, môi trường thuận lợi để đội ngũ này làm tốt nhiệm vụ.
8. Ban cán sự đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp và các bộ ngành, địa phương tiếp tục hoàn thiện chương trình, giáo trình, sách giáo khoa về pháp luật phục vụ trực tiếp cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường theo phương châm kết hợp nhuần nhuyễn lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành. Việc đưa nội dung pháp luật vào giảng dạy trong nhà trường phải được chọn lọc hợp lý, có hệ thống và bảo đảm hiệu quả thiết thực.
9. Ban Nội chính Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương, Ban Khoa giáo Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị này và định kỳ báo cáo Ban Bí thư.
Chỉ thị này phổ biến đến chi bộ.
T.M BAN BÍ THƯ
Đã ký: Phan Diễn
QUYẾT ĐỊNH SỐ 212/2004/QĐ-TTG CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÊ DUYỆT CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG QUỐC GIA PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ, NHÂN DÂN
Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Chỉ thị số 10/2002/CT-TTg ngày 19 tháng 3 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010 (gọi tắt là Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật) gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
1. Mục tiêu: tạo chuyển biến căn bản trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng pháp luật và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn góp phần ngăn chặn và hạn chế vi phạm pháp luật, giữ gìn an ninh và trật tự an toàn xã hội.
2. Nội dung của Chương trình gồm: 4 Đề án kèm theo Quyết định này.
Điều 2. Tổ chức thực hiện và kinh phí của Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật.
1. Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các bộ, ban, ngành, đoàn thể ở Trung ương và ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện Chương trình này.
2. Kinh phí thực hiện Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật do ngân sách nhà nước bảo đảm (bao gồm ngân sách trung ương, ngân sách địa phương).
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Điều 4. Trách nhiệm thực hiện
1. Các bộ, ngành được giao chủ trì và phối hợp thực hiện Đề án chịu trách nhiệm triển khai thực hiện có hiệu quả và đúng tiến độ Đề án được phân công.
2. Bộ trưởng Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc thực hiện Chương trình này.
3. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Phan Văn Khải (đã ký)
CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG QUỐC GIA
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ, NHÂN DÂN Ở XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010
(Ban hành kèm theoQuyết định số 212/2004/QĐ-TTg
ngày 16 tháng 12 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ)
A. MỤC TIÊU CỦA CHƯƠNG TRÌNH
I. Mục tiêu chung:
Tạo chuyển biến căn bản trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng pháp luật và chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn góp phần ngăn chặn và hạn chế vi phạm pháp luật, giữ gìn an ninh và trật tự an toàn xã hội.
II. Mục tiêu cụ thể:
1. Nâng cao năng lực, trách nhiệm thực hiện và thi hành pháp luật của cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn.
2. Đẩy mạnh phổ biến, hướng dẫn thực hiện những quy định pháp luật gắn trực tiếp đến cuộc sống của ngời dân, phù hợp với đối tượng, đặc thù kinh tế, xã hội và tình hình thi hành pháp luật ở từng địa bàn.
3. Từng bước ngăn chặn và hạn chế vi phạm pháp luật ở khu dân cư; xây dựng môi trường sống lành mạnh trong từng gia đình, trong cộng đồng; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chấp hành pháp luật trong các lĩnh vực đất đai, khiếu nại, tố cáo, an toàn giao thông, phòng, chống tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường, bảo vệ và phát triển rừng, dân số… tại các địa bàn trọng điểm.
4. Xây dựng các mô hình, cơ chế phối hợp trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật và vận động chấp hành pháp luật có hiệu quả, phù hợp với địa bàn xã, phường, thị trấn.
5. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật, vận động chấp hành pháp luật trong cộng đồng dân cư.
B. CÁC ĐỀ ÁN CỦA CHƯƠNG TRÌNH
I. Đề án thứ nhất: đưa thông tin pháp luật đến cán bộ, nhân dân thông qua phương tiện thông tin đại chúng và các thiết chế văn hoá thông tin ở xã, phường, thị trấn.
1. Nội dung và mục tiêu:
a) Thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật một cách thường xuyên, có trọng điểm, bằng nhiều hình thức trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Coi trọng việc biểu dương các nhân tố tích cực, điển hình tiên tiến trong thi hành, chấp hành pháp luật, đồng thời phê phán những hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan, tổ chức và cá nhân nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tăng thời lượng, trang viết tuyên truyền, phổ biến pháp luật bằng tiếng dân tộc thiểu số.
b) Sử dụng có hiệu quả hệ thống truyền thanh cơ sở trong phổ biến, thông tin pháp luật. Bồi dưỡng kiến thức pháp luật cần thiết, kỹ năng biên soạn thông tin pháp luật cho cán bộ đài truyền thanh xã, phường, thị trấn.
c) Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật, vận động nhân dân chấp hành pháp luật thông qua hoạt động của các Đội thông tin lưu động, Trung tâm văn hoá thông tin, Nhà văn hoá các cấp. Xây dựng các chương trình văn hoá, văn nghệ, thông tin cổ động, thông tin lưu động gắn với vận động chấp hành pháp luật, xoá bỏ các phong tục, tập quán lạc hậu, tệ nạn xã hội trong cộng đồng dân cư.
d) Phấn đấu đến năm 2010, 100% phóng viên báo, đài chuyên trách về công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và cán bộ văn hoá – thông tin xã, phường, thị trấn thường xuyên được bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật để tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành pháp luật.
2. Cơ quan thực hiện:
Bộ Văn hoá – Thông tin chủ trì; Bộ Tư pháp, Bộ Bưu chính, Viễn thông, Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và các cơ quan thông tấn, báo chí khác phối hợp thực hiện.
II. Đề án thứ hai: xây dựng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động chấp hành pháp luật trong cộng đồng dân cư.
1. Nội dung và mục tiêu:
a) Lồng ghép việc phổ biến, giáo dục pháp luật, vận động nhân dân chấp hành pháp luật với phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; phong trào phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội; hoạt động hoà giải ở cơ sở và việc thực hiện hương ước, quy ước ở cộng đồng dân cư.
b) Lựa chọn một số địa bàn xã, phường, thị trấn thuộc khu vực thành thị, nông thôn, miền núi và tại 3 vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ để xây dựng điểm sáng trong chấp hành pháp luật.
c) Xây dựng nhóm cộng đồng ở khu dân cư tham gia phổ biến pháp luật, vận động chấp hành pháp luật phù hợp với đặc thù từng địa bàn, từng nhóm đối tượng.
2. Cơ quan thực hiện:
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì; Hội Nông dân Việt Nam, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Bộ Tư pháp, Bộ Văn hoá – Thông tin và các bộ, ngành khác phối hợp thực hiện.
III. Đề án thứ ba: tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn.
1. Nội dung và mục tiêu:
a) Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật về công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn bằng nhiều hình thức thiết thực, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo của cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn.
b) Tuyên truyền việc chấp hành các quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo đã có hiệu lực pháp luật, củng cố lòng tin của nhân dân vào tính đúng đắn của các quyết định giải quyết cụ thể; phê phán các hành vi lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để gây rối, coi thường và chống đối pháp luật.
c) Định kỳ bồi dưỡng nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn nhằm nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo của cán bộ ở xã, phường, thị trấn.
2. Cơ quan thực hiện:
Thanh tra Chính phủ chủ trì; Bộ Tư pháp, Bộ Văn hoá – Thông tin, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam và các bộ, ngành khác phối hợp thực hiện.
IV. Đề án thứ tư: phát huy vai trò của cơ quan và cán bộ tư pháp trong phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn.
1. Nội dung và mục tiêu:
a) Phát huy vị trí, vai trò của tư pháp xã, phường, thị trấn trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, nhân dân thông qua nhiều hình thức phù hợp và có hiệu quả thiết thực như tuyên truyền miệng, thông qua câu lạc bộ pháp luật, thông qua hoạt động hoà giải ở cơ sở, tủ sách pháp luật…
b) Thực hiện cung cấp thông tin pháp luật, hướng dẫn, tư vấn pháp luật miễn phí định kỳ cho các đối tượng là người nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số thông qua các trung tâm tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý.
c) Tổ chức tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn.
d) Xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan tư pháp và các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhằm nâng cao sự hiểu biết pháp luật cho cán bộ, nhân dân.
đ) Nâng cao vai trò của cán bộ tư pháp, công an xã trong việc tham mưu cho chính quyền xã, phường, thị trấn thực hiện nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Toà án trong phạm vi thẩm quyền.
e) Thực hiện tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân xã, phường, thị trấn thông qua các phiên toà xét xử lưu động và công tác thi hành án trên địa bàn.
2. Cơ quan thực hiện:
Bộ Tư pháp chủ trì; Ban Nội chính Trung ương, Toà án nhân dân tối cao, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ quan khác phối hợp thực hiện.
C. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH
I. Thời gian thực hiện
Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật được thực hiện từ năm 2005 đến năm 2010, chia làm 2 giai đoạn:
1. Từ năm 2005 đến năm 2007 triển khai một số hoạt động chính sau:
a) Xây dựng các Đề án của Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật, kế hoạch thực hiện cụ thể và tổ chức triển khai.
b) Xác định những địa bàn trọng điểm, tập trung chỉ đạo.
c) Tổ chức chiến dịch truyền thông; phát động phong trào sâu rộng trong nhân dân về tìm hiểu và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật.
d) Sơ kết giai đoạn 1.
2. Từ năm 2008 đến năm 2010:
Tiếp tục triển khai Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật trên phạm vi cả nước. Tổng kết việc thực hiện Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật vào năm 2010.
II. Giải pháp chủ yếu thực hiện Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật
1. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, sự chỉ đạo của chính quyền các cấp, nhất là cấp xã; phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở xã, phường, thị trấn. Huy động tổ trưởng tổ dân phố, già làng, trưởng thôn, làng, ấp, bản, các chức sắc tôn giáo, cán bộ hoà giải và các lực lượng hoạt động tình nguyện ở cơ sở tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật, vận động nhân dân chấp hành pháp luật.
2. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở của các ngành và địa phương nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật. Xây dựng chính sách, chế độ cho cán bộ và cộng tác viên thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
3. Triển khai đồng bộ các hình thức, biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật, vận động chấp hành pháp luật phù hợp với từng địa bàn, từng vùng và từng nhóm đối tượng ở xã, phường, thị trấn.
4. Đầu tư hợp lý các phương tiện, điều kiện phục vụ phổ biến, giáo dục pháp luật ở những vùng dân tộc ít người, miền núi, địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn. Huy động sự tài trợ của các tổ chức nước ngoài, các nguồn lực của cộng đồng tham gia tích cực vào công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, vận động chấp hành pháp luật ở xã, phường, thị trấn.
5. Phát động phong trào chấp hành pháp luật sâu rộng trong từng hộ gia đình, từng khu dân cư. Thu hút sự tham gia của nhân dân trong việc thực hiện Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật; phát huy tính chủ động, tự giác của nhân dân trong tìm hiểu pháp luật và tự giác chấp hành pháp luật.
6. Gắn kết chặt chẽ việc thực hiện Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật với cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, với phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội ở khu dân cư, với việc thực hiện các chương trình kinh tế – xã hội, hoạt động áp dụng và chấp hành pháp luật ở từng địa bàn xã, phường, thị trấn.
III. Tổ chức điều hành
1. Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải được tổ chức thực hiện đồng bộ, có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên của các ngành, các cấp, các đoàn thể, sự hưởng ứng tham gia của toàn dân.
2. Bộ Tư pháp là cơ quan quản lý Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật, tổ chức điều hành và kiểm tra các hoạt động của Chương trình trên phạm vi cả nước, phối hợp chỉ đạo thực hiện các Đề án trong Chương trình trên cùng một địa bàn cụ thể nhằm khai thác tốt nhất các nguồn lực, các phương tiện, điều kiện, đội ngũ để tập trung tạo sự chuyển biến trong những lĩnh vực đã xác định.
3. Các cơ quan chủ trì đề án thành lập Ban Điều hành Đề án, do lãnh đạo của cơ quan đó làm Trưởng ban và các thành viên là lãnh đạo các cơ quan phối hợp thực hiện Đề án.
4. Các bộ, ngành được giao chủ trì Đề án có trách nhiệm xây dựng Đề án chi tiết trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nội dung; trực tiếp chỉ đạo, triển khai có hiệu quả các Đề án trong Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.
IV. Phân công trách nhiệm
1. Bộ Tư pháp:
a) Xây dựng kế hoạch từng giai đoạn, từng năm, cơ chế, chính sách, giải pháp để thực hiện Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật một cách phù hợp, có hiệu quả; chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật; định kỳ hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tiến độ và kết quả thực hiện Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật.
b) Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo điểm việc thực hiện Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật tại một số địa bàn để rút kinh nghiệm.
c) Phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, ngành có liên quan lập dự trù kinh phí và các phương tiện cần thiết để thực hiện Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả.
2. Bộ Tài chính:
a) Chủ trì xây dựng văn bản hướng dẫn cụ thể việc quản lý, sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước để thực hiện Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật.
b) Hàng năm, căn cứ báo cáo dự toán kinh phí của các cơ quan chủ trì Đề án, thẩm tra và tổng hợp trong dự toán ngân sách nhà nước hàng năm theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước; đồng thời thực hiện việc kiểm tra công tác quản lý và sử dụng kinh phí theo đúng chức năng, nhiệm vụ được giao.
c) Phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ và các bộ, ngành có liên quan xây dựng chính sách, chế độ cho cộng tác viên thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Phối hợp với Bộ Tài chính bố trí ngân sách cho Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật trong kế hoạch hàng năm trình Chính phủ theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước.
4. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:
Xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với tình hình của địa phương; lồng ghép các hoạt động của Chương trình này với hoạt động của các chương trình, kế hoạch khác có liên quan trên cùng địa bàn; bố trí từ ngân sách địa phương để thực hiện các nội dung của Chương trình quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn. Chỉ đạo xây dựng các điểm sáng trong chấp hành pháp luật tại khu dân cư.
5.Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp có trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện Chương trình này./.
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Phan Văn Khải đã ký
Mục lục |
Trang |
– Những kết quả và hạn chế trong việc thực thi Luật Thương mại năm 1997 |
1 |
– Sự cần thiết sửa đổi Luật Thương mại năm 1997 và những nguyên tắc chỉ đạo |
17 |
Luật Thương mại năm 2005 – Trần Thị Bạch Dương |
23 |
– Những quy định chung |
25 |
– Mua bán hàng hoá |
37 |
– Cung ứng dịch vụ, xúc tiến thương mại |
47 |
– Các hoạt động trung gian thương mại và một số hoạt động thương mại cụ thể khác |
59 |
– Chế tài trong thương mại và một số quy định khác |
76 |
Văn bản pháp luật |
83 |
– Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư |
83 |
– Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ |
87 |
– Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010 |
89 |
[1] PTS. Phạm Duy Nghĩa, Tìm hiểu Luật Thương mại Việt Nam, Nhà xuất bản chính trị quốc gia – Hà Nội, 1999, trang 34
[2] Theo thống kê của Cục quản lý cạnh tranh thuộc Bộ Thương mại, tính đến thời điểm tháng 7/2005, Việt Nam đang phải đối mặt với 24 vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ của nước ngoài đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam
(LVN GROUP FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)