1. Mở đầu vấn đề
Bắt chước – đó là một quá trình, trong đó được hiểu là một cá nhân cố gắng theo dõi chính xác mọi thứ khác cho người khác, nhóm, người mẫu, trong khi anh ta sao chép độc lập các hành động mà anh ta nhận thấy từ người khác.
Theo đó, bắt chước tâm lý có tầm quan trọng đáng kể trong việc đồng hóa trải nghiệm xã hội của một người, được quan sát trong nhiều giai đoạn phát triển cá nhân khác nhau. Ví dụ: Ở lứa tuổi mẫu giáo và trẻ nhỏ, thông qua bắt chước, các chuẩn mực hành vi, kỹ năng tự phục vụ và hành động khách quan được thông qua. Ở tuổi lớn hơn, nó mang một ý nghĩa khác…
2. Phân tích hiện tượng bắt chước
Hiện tượng bắc chước là một hiện tượng xã hội học hoàn toàn hợp lý. Ví dụ như, khi một người phải chịu áp lực với sự trợ giúp của các chuẩn mực xã hội, thì hầu hết những người tham gia trong một nhóm xã hội hành xử theo một cách nhất định, thực hiện các hành động cụ thể và sẽ khó để một người chống lại điều này. Trong trường hợp này, bắt chước là một kiểu suy nghĩ của nhóm. Mọi người muốn cảm nhận và hiểu rằng họ đúng. Những người này cư xử theo cách này để phù hợp với những người khác. Họ xem cách người khác cư xử và lấy một ví dụ, sao chép mô hình hành vi của họ, tin rằng điều này là chính xác, vì đa số hành xử theo cách này.
Trong hiện tượng bắt chước, nỗi sợ bị cô lập có vấn đề. Mọi người đều muốn được hiểu và dễ chịu để được chấp nhận trong xã hội, bởi vì nhiều người không muốn trở thành những con quạ trắng, bị loại khỏi nhóm. Đó là nhu cầu công nhận góp phần vào sự chấp nhận của họ đối với các giá trị và chuẩn mực của đa số.
Nói về hiệu ứng của bắt chước, nó là một biểu hiện hoàn toàn không ổn định, bởi vì mọi người có thể dễ dàng chấp nhận sở thích và từ bỏ chúng nhanh chóng. Hiện tượng này trong khía cạnh tâm lý và xã hội học là một ý thức theo sau hành vi của người khác, một sự giải trí của hành vi nhận thức.
Cơ chế bắt chước trong tâm lý học có thể có ý thức và vô thức, tuyệt đối hoặc một phần, sáng tạo và nghĩa đen, tự nguyện và bắt buộc.
Bắt chước như một cơ chế của tâm lý đại chúng có một đặc điểm đến nỗi nó biểu hiện bằng sự suy giảm ý thức cá nhân. Sự cần thiết là trong quần chúng, không chỉ giúp giảm mức độ hợp lý, nó làm tăng cảm xúc. Trạng thái cảm xúc này góp phần khiến một người mong muốn chia sẻ nó với những người khác.
Nếu tình huống thuận lợi phát sinh cho điều này, khả năng bắt chước được cập nhật. Các yếu tố thuận lợi có thể là sự hiện diện của một số người nhất định cảm thấy điều kiện gần gũi, sẵn sàng chia sẻ nó. Nó chỉ ra rằng nó trở thành cơ chế chính của hành vi, vì nó trở thành một khả năng cụ thể từ một khả năng tiềm năng. Một người bắt đầu hiển thị các mô hình hành vi cảm nhận của mọi người trong trạng thái cảm xúc tương tự, quan sát các mô hình đề xuất điều chỉnh trạng thái cảm xúc. Tạo ra một khối người bắt chước lẫn nhau. Với sự tương tác này, trạng thái thử nghiệm tăng cường, đạt đến đỉnh điểm, sau đó giảm dần.
Khả năng bắt chước vô hạn, nó cạn kiệt, xả trạng thái cảm xúc, trong khi nhu cầu điều chỉnh trạng thái này đã bão hòa, sau đó kiểm soát hành vi bắt đầu được khôi phục.
3. Khái quát về tâm ký học
Khái niệm tâm lý học xuất phát từ tiếng Latinh với “Psyche” là “linh hồn, tinh thần” và “logos” là “khoa học, học thuyết”. Vì thế tâm lý học hay Psychology chính là khoa học về tâm hồn.
Để dễ hiểu hơn thì có thể hiểu tâm lý học là một ngành khoa học nghiên cứu tất cả các hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người gắn liền và điều hành mọi hành vi, hoạt động của con người.
Do đó, ta thấy tâm lý học là một ngành khoa học độc lập nghiên cứu về tâm lý con người thông qua hoạt động của não bộ.
Với lịch sử hình thành tâm lý học: Kể từ đầu thế kỉ XIX trở đi, nền sản xuất thế giới đã phát triển mạnh, thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng của nhiều lĩnh vực khoa học, kĩ thuật phát triển. Chính những thành tựu của các lĩnh vực khoa học này đã tạo điều kiện cho tâm lý học trở thành một ngành khoa học độc lập với các trường phái tâm lý học khác nhau.
Sự kiện lớn nhất tạo nên kết quả đó chính là sự ra đời của Phòng thí nghiệm tâm lý đầu tiên trên thế giới do nhà tâm lý người Đức Wilhelm Wundt (1832 – 1920) sáng lập vào năm 1879 tại thành phố Laixic – Ông cũng chính là người đặt nền móng đầu tiên cho ngành tâm lý học.
Vào thời điểm đó, Wilhelm Wundt là người đầu tiên đặt sự quan tâm đặc biệt vào các khối cấu trúc trí tuệ và chuyên tâm nghiên cứu nó. Cũng tại đây ông chính thức định nghĩa cho câu hỏi tâm lý học là gì? Theo ông, tâm lý học là một bộ môn nghiên cứu kinh nghiệm hữu thức (Conscious experience), thông qua một mô hình nhận thức được mệnh danh là lý thuyết kết cấu.
Theo Wilhelm Wundt, đối tượng của tâm lý học không chỉ là ý thức chủ quan và con đường nghiên cứu ý thức là các phương pháp nội quan và tự quan sát. Mà đối tượng của tâm lý học còn bao hàm cả những ý thức khách quan (hữu thức) mà con người hoàn toàn có thể quan sát, đo đạc được bằng các phương pháp thực nghiệm.
Phát huy những ý tưởng của Wundt, đầu thế kỷ XX các trường phái tâm lý học theo chủ nghĩa khách quan ra đời bao gồm: Nhận thức hành vi; tâm lý học Gestalt và Phân tâm học… Ngoài ra, trong giao đoạn này ngành tâm lý còn phát triển nhiều trường phái khác như nhân văn; nhận thức..
Một bước ngoăt to lớn cho ngành tâm lý đó là sự thành công của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, khi mà chủ nghĩa Mac-Lenin trở thành kim chỉ nam cho các nhà triết học, nhà khoa học và các trường phái tâm lý học thời kỳ đó.
=> Như vậy, tâm lý học có đầy đủ các yếu tố của một ngành khoa học thực sự bao gồm:
– Đối tượng nghiên cứu: đối tượng của tâm lý là các hiện tượng tâm lý với tư cách là các hiện tượng tinh thần do thế giới khách quan tác động vào não con người, gọi chung là các hoạt động tâm lý. Theo đó, tâm lý học nghiên cứu các hiện tượng tâm lý con người bao gồm: sự hình thành, vận hành và phát triển của hoạt động tâm lý.
– Hệ thống cơ sở lý luận: tâm lý có hệ thống cơ sở lý luận đồ sộ bao gồm các khái niệm về các hiện tượng tâm lý, quy luật của chúng cũng như quan điểm và các học thuyết tâm lý khác nhau..
– Hệ thống các phương pháp nghiên cứu: Hệ thống các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học khá hoàn chỉnh bao gồm cả phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng (quan sát, trắc nghiệm; đàm thoại; điều tra; phân tích sản phẩm hoạt động; nghiên cứu tiểu sử; nghiên cứu điển hình cá nhân..)
Từ khi trở thành một ngành khoa học độc lập cho đến nay ngành tâm lý đã tham gia vào nhiều lĩnh vực hoạt động trong cuộc sống như giáo dục; y tế; thể thao; du lịch; kinh doanh; lao động sản xuất; vui chơi giải trí…Qua đó góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống một cách toàn diện và thiết thực góp phần mang lại hạnh phúc cho toàn xã hội.
4. Bắt chước trong Tâm lý học
Mặc dù bắt chước trong Tâm lý học có sự tương đồng được quan sát trong các dấu hiệu bên ngoài, tuy nhiên cơ chế bắt chước trong tâm lý học có nhiều dấu hiệu tâm lý khác nhau ở các nhóm tuổi khác nhau.
Ví dụ ta phân tích bắt chước trong tâm lý học thành các giai đoạn sau:
– Ở thời thơ ấu, hiện tượng này được đặc trưng bởi thực tế là đứa trẻ cảm nhận được giọng nói và chuyển động của người lớn, cố gắng xác định lần tiếp xúc đầu tiên với nó.
– Ở lứa tuổi của một trẻ mẫu giáo, bắt chước tâm lý đã là một cái nhìn sâu sắc về cấu trúc ngữ nghĩa của hoạt động của một cá nhân . Nó phát triển, trải qua các giai đoạn nhất định và hoạt động hàng đầu liên quan đến tuổi tác, trò chơi cốt truyện, cũng thay đổi. Đầu tiên trẻ bắt đầu bắt chước các tính năng mở của các hoạt động của người lớn, dần dần bắt đầu sao chép các mô hình hành vi phản ánh ý nghĩa của tình huống.
– Ở tuổi thanh thiếu niên, bắt chước được định hướng nhiều hơn về nhận dạng bên ngoài với một người quan trọng hoặc với một khuôn mẫu về đặc điểm hành vi cá nhân. Ở người lớn, nó là một yếu tố của đào tạo trong các hoạt động của một số loại (chuyên nghiệp, thể thao, cá nhân và những người khác).
5. Ý nghĩa của tâm lý học
Với sự trải qua gần 150 năm hình thành và phát triển, tâm lý học và các trường phái tâm lý học đã chứng minh được vai trò của mình đối với nền văn minh của nhân loại. Hiện nay, tâm lý đang là lĩnh vực vô cùng quan trọng trên toàn thế giới vì những ứng dụng và giá trị to lớn mà nó mang lại cho con người. Cụ thể:
– Ý nghĩa của tâm lý học là vô cùng to lớn cho khoa học và cuộc sống
Bên cạnh giao thoa và bổ trợ cho các ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội thì ý nghĩa của tâm lý học ngày càng quan trọng trong nhiều lĩnh vực của đời sống đặc biệt là các mối quan hệ giữa người với người.
Ở các lĩnh vực khác nhau của xã hội như: tư pháp, thanh tra, y tế, thương mại, du lịch… đều cần sự có mặt của khoa học tâm lý, sự ra đời các khoa học liên ngành như tâm lý học y học, tâm lý học tư pháp, tâm lý học du lịch… là minh chứng cụ thể khẳng định ý nghĩa của tâm lý học với các khoa học khác và cuộc sống xã hội con người.
Đặc biệt với công tác giáo dục, lĩnh vực trồng người” tâm lý học có vị trí đặc biệt quan trọng, những tri thức tâm lý học là cơ sở khoa học cho việc định hướng đúng trong dạy học và giáo dục học sinh: Hiểu tâm lý lứa tuổi là cơ sở cho dạy học, giáo dục phù hợp, sử dụng các biện pháp các phương tiện giáo dục có hiệu quả đem lại chất lượng cao cho công tác giáo dục học sinh…
(MK LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)
Trên đây là nội dung Luật LVN Group đã sưu tầm và biên soạn. Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của quý khách hàng. Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài gọi số: 1900.0191 hoặc liên hệ văn phòng để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng!
Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).