1. Khái niệm Bảo lưu trật tự công cộng

Trật tự công (Public policy hoặc Public ordre) là một thuật ngữ pháp lí trừu tượng và rất phức tạp, tuy nhiên nó được sử dụng trong hệ thống pháp luật ở nhiều quốc gia. Mỗi quốc gia lại có những các hiểu khác nhau về khái niệm này. Tuy nhiên, tựu chung lại trật tự công là “ Tổng thể các nguyên tắc thành văn hoặc bất thành văn trong một trật tự pháp lí, được coi là các nguyên tắc mang tính nền tảng mà các chủ thể không thể vi phạm hoặc có thỏa thuận khác, các quy phạm này có tính chất loại trừ cả pháp luật nước ngoài cũng như các văn bản có tính chất pháp lý của cơ quan công quyền nước khác”.

Còn Bảo lưu trật tự công cộng là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền của một quốc gia từ chối áp dụng pháp luật của nước khác để bảo vệ những lợi ích của quốc gia mình. Việc bảo lưu trật tự công cộng sẽ làm cho hiệu lực của quy phạm xung đột khi dẫn chiếu tới luật nước ngoài cần áp dụng bị hạn chế. Trong thực tiễn tư pháp quốc tế, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của một nước từ chối áp dụng pháp luật nước ngoài không phải vì bản chất của pháp luật nước ngoài trái với bản chất của pháp luật nước mình mà vì hậu quả của việc áp dụng đó gây bất lợi cho trật tự công cộng của quốc gia mình.

Vấn đề bảo lưu trật tự công cộng trong tư pháp quốc tế tại Việt Nam cũng được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự năm 2015 đối với việc áp dụng tập quán và pháp luật nước ngoài quy định lần lượt tại Điều 666 và 670 như sau:

Điều 666. Áp dụng tập quán quốc tế

Các bên được lựa chọn tập quán quốc tế trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 664 của Bộ luật này. Nếu hậu quả của việc áp dụng tập quán quốc tế đó trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được áp dụng.

Điều 670. Trường hợp không áp dụng pháp luật nước ngoài

1. Pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu đến không được áp dụng trong trường hợp sau đây:

a) Hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam;

Ý nghĩa của bảo lưu trật tự công: Việc bảo lưu trật tự công cộng khiến cơ quan tài phán sẽ chỉ được áp dụng nội luật của mình trong tình huống pháp lý cụ thể. Nói cách khác là trong trường hợp xét thấy cần bảo vệ trật tự công quốc gia thì sẽ áp dụng ngay pháp luật của quốc gia để giải quyết mà không cần thông qua quy phạm xung đột. Thông thường trong trường hợp này sẽ áp dụng các quy phạm mệnh lệnh của quốc gia. Như vậy trật tự công cộng theo pháp luật Việt Nam về cơ bản được hiểu là các nguyên tắc cơ bản tạo ra một trật tự pháp lý trong chế độ của chúng ta.

2. Hệ quả pháp lý của việc bảo lưu trật tự công cộng

Việc áp dụng bảo lưu trật tự công cộng sẽ dẫn tới những hệ quả pháp lý sau:

Thứ nhất, làm triệt tiêu hiệu lực của quy phạm pháp luật xung đột. Quy phạm xung đột dẫn chiếu tới hệ thống pháp luật nước ngoài, nhưng luật nước ngoài không được áp dụng bởi nó trái với trật tự công thì việc dẫn chiếu đó là vô nghĩa, hay chính là việc chọn một hệ thống pháp luật không áp dụng được trên thực tế. điều đó làm quy phạm xung đột mất hiệu lực.

Thứ hai, cơ quan tài phán sẽ không áp dụng pháp luật n­ước ngoài lẽ ra phải đ­ược áp dụng theo sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột mà áp dụng nội luật của mình trong tình huống pháp lý cụ thể. Nói cách khác là trong trường hợp xét thấy cần bảo vệ trật tự công quốc gia thì sẽ áp dụng ngay pháp luật của quốc gia (áp dụng pháp luật Việt Nam) để giải quyết mà không cần thông qua quy phạm xung đột. Trong nhiều tính huống, hệ quả này thực sự có tính tích cự trong việc bảo vệ và giữ gìn truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hoá Việt Nam cũng như bảo đảm được một cách tốt nhất quyền công dân đặc biệt là quyền của phụ nữ và trẻ em. 

3. Khái niệm Lẩn tránh pháp luật trong tư pháp quốc tế

Lẩn tránh pháp luật là thủ đoạn mà đương sự sử dụng để lẩn tránh khỏi sự chi phối của hệ thống pháp luật lẽ ra phải được áp dụng và lường sự dẫn chiếu của quy phạm pháp luật xung đột đến hệ thống pháp luật khác có lợi cho mình. Các thủ đoạn này có thể kể tới như: di chuyển trụ sở, thay đổi nơi cư trú, thay đổi quốc tịch, chuyển động sản thành bất động sản…Hiện tượng lẩn tránh pháp luật thường xảy ra trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, khi các đương sự thay đổi quốc tịch hoặc thay đổi nơi cư trú nhằm được kết hôn sớm, kết hôn với nhiều người (các nước theo đạo Hồi), kết hôn đồng giới (Na Uy, Đan Mạch) hoặc được dễ dàng li hôn, vv. Để áp dụng hệ thống pháp luật có lợi cho mình và tránh áp dụng hệ thống pháp luật bất lợi, chủ thể của quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài có thể áp dụng các thủ đoạn sau:

Thứ nhất, lợi dụng sự khác nhau của các quy phạm xung đột trong hệ thống pháp luật các nước. Các quy phạm xung đột của các nước khác nhau sẽ dẫn đến việc lựa chọn luật thực chất khác nhau khi cùng giải quyết một vấn đề. Nói cách khác, đây là thủ đoạn lợi dụng sự khác nhau giữa tư pháp quốc tế các nước.

Thứ hai, lợi dụng sự khác nhau trong quy phạm xung đột của chính nước có quy phạm xung đột được áp dụng để chọn luật điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài

Ví dụ: Một cặp vợ chồng xin li hôn ở nước A không được vì các điều kiện cấm li hôn, họ chạy sang nước B, nơi mà ở đó điều kiện li hôn dễ dàng hơn để được phép li hôn. Ngược lại, họ muốn đăng ký kết hôn ở nước B không được thì sẽ sang nước A để đăng ký kết hôn với các điều kiện dễ dàng hơn.

Trên thực tế tư pháp quốc tế, hầu hết các quốc gia đều coi đây là hiện tượng không bình thường và đều tìm cách hạn chế hoặc ngăn cấm. Ví dụ: Tại Anh hoặc Mỹ nếu các hợp đồng giữa các bên kí kết mà lẩn tránh pháp luật của các nước này thì sẽ bị Tòa án hủy bỏ.

Tương tự như vậy, pháp luật Việt Nam cũng quy định mọi hành vi lẩn tránh pháp luật là vi phạm và không được chấp nhận (trừ một số trường hợp theo quy định về việc công nhận việc kết hôn của công dân Việt Nam ở nước ngoài vì các lý do bảo vệ bà mẹ, trẻ em hoặc đã khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, các trường hợp lẩn tránh để được kết hôn không đúng quy định pháp luật Việt Nam gần như đều không được chấp nhận).

Nguyên nhân của hiện tượng này là vì mỗi quốc gia trên thế giới đều có hệ thống pháp luật riêng với các điều khoản không giống với các quốc gia khác bởi sự khác nhau về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và thể chất, tâm lý của dân cư nước mình. Bên cạnh đó, mỗi quốc gia lại có hệ thống các quy phạm xung đột riêng, nhiều quy phạm xung đột lại dẫn chiếu tới việc áp dụng pháp luật của quốc gia khác. Chính vì vậy, cùng một vụ việc nhưng cách giải quyết ở các quốc gia khác nhau sẽ rất khác nhau. Các chủ thể khi tham gia vào quan hệ do tư pháp quốc tế điều chỉnh đều luôn chú trọng đến vấn đề quan hệ đó sẽ được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật thực chất của nước nào và khi nhận thấy hệ thống pháp luật thực chất do quy phạm xung đột dẫn chiếu đến có khả năng sẽ gây bất lợi cho mình, một bên trong quan hệ sẽ tìm cách tránh để không phải chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật đó và hướng đến một hệ thống pháp luật khác có lợi hơn trên cơ sở vận dụng các quy phạm xung đột sao cho có lợi nhất.

Đây chính là cơ sở làm phát sinh hiện tượng lẩn tránh pháp luật trong tư pháp quốc tế.

4. Khái niệm Dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba

Hiện nay, trong khoa học tư pháp quốc tế đang có hại quan đuêmr về dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba như sau:

Quan điểm thứ nhất, nếu hiểu dẫn chiếu tới pháp luật nước ngoài chỉ đến quy phạm thực chất của nước đó sẽ loại trừ vẫn đề dẫn chiếu ngược.

Sơ đồ minh hoạ:

Quy phạm xung đột của nước A ——-chỉ dẫn chiếu——> Quy phạm thực chất của nước B => Vụ việc được giải quyết, không dẫn chiếu ngược lại cũng không dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba.

Quan điểm thứ hai, nếu hiểu dẫn chiếu đến pháp luật của nước ngoài là dẫn chiếu đến toàn bộ hệ thống pháp luật của nước đó bao gồm cả dẫn chiếu tới quy phạm thực chất và quy phạm xung đột của nước ngoài thì nếu dẫn chiếu tới cả quy phạm xung đột sẽ dẫn chiếu ngược trở lại đến pháp luật của nước thứ 3.

Sơ đồ minh hoạ:

Quy phạm xung đột của nước A——-vừa dẫn chiếu——> Quy phạm thực chất của nước B => Vụ việc được giải quyết, không dẫn chiếu ngược lại cũng không dẫn chiếu đến pháp luật nước thứ ba.

Đồng thời: 

Quy phạm xung đột của nước A——-cũng dẫn chiếu——> Quy phạm xung đột của nước B —–dẫn chiếu ngược lại—–> Quy phạm thực chất của nước A. hoặc dẫn chiếu đến pháp luật nước C (là nước thứ 3)

Tư pháp quốc tế Việt Nam hiểu theo quan điểm thứ hai. Cụ thể, tại Điều 668 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định như sau:

Điều 668. Phạm vi pháp luật được dẫn chiếu đến

2. Trường hợp dẫn chiếu đến pháp luật Việt Nam thì quy định của pháp luật Việt Nam về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự được áp dụng.

3. Trường hợp dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba thì quy định của pháp luật nước thứ ba về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự được áp dụng.

5. Chế độ báo phục quốc nghĩa là gì ?

Chế độ báo phục quốc được áp dụng trên cơ sở của chế độ có đi có lại và cùng xuất phát từ tinh thần “có đi có lại” nên vấn đề “báo phục” được đặt ra trong quan hệ giữa các quốc gia.

Trong khi Chế độ có đi có lại được hiểu là một nước dành cho thể nhân hoặc pháp nhân nước ngoài một số quyền và nghĩa vụ hoặc những ưu đãi nhất định đúng bằng những quyền và nghĩa vụ cũng như những ưu đãi thực tế mà các thể nhân và pháp nhân của nước đó đã được hưởng ở nước ngoài kia.

Thì báo phục quốc được hiểu là các biện pháp trả đũa khi một quốc gia nào đó đơn phương sử dụng những biện pháp hoặc hành vi gây thiệt hại hoặc tổn hại cho quốc gia khác hay công dân hoặc pháp nhân của quốc gia khác thì chính quốc gia bị tổn hại đó hoặc công dân của nó được phép sử dụng các biện pháp trả đũa nư hạn chế hoặc có các hành động tương ứng đối phó hoặc đáp lại các hành vi của quốc gia đầu tiên đơn phương gây ra thiệt hại đó.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.

Rất mong nhận được sự hợp tác!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty luật LVN Group