Sở hữu trí tuệ còn gọi với cái tên khác là tài sản trí tuệ. Chúng là những sản phẩm được tạo ra từ sự sáng tạo của con người. Các sản phẩm có thể kể đến như: tác phẩm văn học, phần mềm, phát minh âm nhạc, sáng chế,… Quyền sở hữu trí tuệ là các quyền đối với những sản phẩm sáng tạo nói trên.
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
Dưới đây ta sẽ cùng tìm hiểu Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (World Intellectual Property Organization – WIPO) và vấn đề liên quan…
1. Mở đầu vấn đề
Sự dễ dàng vượt qua biên giới của những sáng tạo trí tuệ có nghĩa là hầu hết những người nắm quyền sở hữu trí tuệ đều quan tâm bảo vệ quyền của mình không phải chỉ ở một nước. Công ước Pari năm 1883 về Bảo hộ Sở hữu Công nghiệp và Công ước Beme năm 1886 về Bảo hộ Tác phẩm Nghệ thuật và Văn học, cơ sở của sự bảo hộ quốc tế, nêu ra nguyên tắc đối xử quốc gia, nghĩa là công dân của những nước khác phải chấp nhận một sự đối xử như nhau trong mỗi một nước như áp dụng cho công dân nước mình, không kê đến sự có đi có lại. Ngày nay những nguyên tắc này vẫn còn là cơ sở cho sự bảo hộ quốc tế đối với quyền sở hữu trí tuệ.
2. Giới thiệu Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO)
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (World Intellectual Property Organization – WIPO) là một trong những cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc, được thành lập vào năm 1967 và phạm vi hoạt động là “khuyến khích sự sáng tạo của nhân loại và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trên toàn thế giới.
WIPO hiện nay có 188 thành viên và quản lý 23 hiệp ước quốc tế, đặt trụ sở chính tại Genève, Thụy Sĩ. Tổng giám đốc đương nhiệm là ông Francis Gurry. Vatican và hầu hết các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc đều tham gia vào WIPO. Những quốc gia và vùng lãnh thổ không tham gia WIPO bao gồm: Kiribati, Quần đảo Marshall, Liên bang Micronesia, Nauru, Palau, Palestine, Cộng hòa Sahrawi, Quần đảo Solomon, Đài Loan, Đông Timor, Tuvalu và Vanuatu.
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (World Intellectual Property Organization – WIPO) được thành lập năm 1967 tại Stockholm, WIPO quản lý hầu hết các hiệp ước và công ước trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ bao gồm cả hai Công ước Pari và Berne đã nêu. Hiện nay WIPO đóng trụ sở tại Geneva, có 161 Nhà nước Thành viên và là cơ quan chuyên ngành của Liên Hợp quốc.
Mục tiêu của WIPO là xúc tiến sự bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên phạm vi thế giới và đảm bảo những hợp tác về hành chính giữa các hiệp ước, công ước về quyền sở hữu trí tuệ, chịu trách nhiệm vê hô trợ câc nước đang phât triển trong lĩnh vực này. Từ 1.1.1966, WIPO có thoả thuận hợp tác với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đê hỗ trợ câc nước đang phát triển thu thập thông tin về quyền sở hữu trí tuệ từ câc nước thành viên WTO.
3. Lịch sử hình thành Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO)
Tiền thân của WIPO là BIRPI được thành lập vào năm 1893 để quản lý việc thực thi Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật và Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp.
Công ước về thành lập Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới chính thức đặt nền móng cho sự thành lập của WIPO, có hiệu lực từ ngày 26 tháng 4 năm 1970. Theo điều 3 của công ước, WIPO hướng tới mục đích thúc đẩy việc bảo hộ tài sản trí tuệ trên toàn cầu. WIPO trở thành một cơ quan đặc trách của Liên hợp quốc từ năm 1974.
Không giống các cơ quan khác của Liên hợp quốc, WIPO có nguồn tài chính riêng độc lập với sự đóng góp của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Năm 2006, hơn 90% trong số tiền 250 triệu francs Thụy Sĩ có được là nhờ vào tiền lệ phí đăng ký và nộp hồ sơ cho Văn phòng chính của WIPO (International Bureau) căn cứ theo quy định của Hiệp ước PCT về đăng ký bằng sáng chế (Patent Cooperation Treaty), hệ thống Thỏa ước Madrid về đăng ký nhãn hiệu quốc tế và hệ thống Thỏa ước Hague về đăng ký kiểu dáng công nghiệp.
Giống như tất cả các diễn đàn đa chính phủ khác của Liên hợp quốc, WIPO không phải là một cơ quan dân cử. WIPO thường cố gắng đi đến các quyết định thông qua phương thức đồng thuận. Trong trường hợp phải bỏ phiếu, mỗi quốc gia thành viên của WIPO đều có một phiếu, bất kể dân số và sự đóng góp tài chính của quốc gia đó (cho WIPO) như thế nào. Điều này dẫn đến một hệ quả tất yếu liên quan đến chính sách về tài sản trí tuệ giữa các quốc gia ở Bắc và Nam bán cầu. Trong suốt những năm 60 và 70 của thế kỷ XX, các quốc gia đang phát triển có thể ngăn cản việc triển khai các hiệp định về sở hữu trí tuệ, điển hình như việc cấp bằng sáng chế dược phẩm trên phạm vi toàn cầu.
Trong những năm 1980, Hoa Kỳ và một số quốc gia phát triển đã chuyển vấn đề sở hữu trí tuệ ra khỏi khuôn khổ của WIPO và đưa vào chương trình nghị sự của GATT, và sau này là WTO, dẫn đến việc hình thành Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS).
Hoạt động của WIPO chủ yếu dựa vào các ủy ban, bao gồm Ủy ban thường trực về cấp bằng sáng chế (Standing Committee on Patents (SCP)), Ủy ban thường trực về bản quyền và các quyền liên quan (Standing Committee on Copyright and Related Rights (SCCR)), Ủy ban cố vấn về thực thi pháp luật (Advisory Committee on Enforcement (ACE)), Ủy ban liên chính phủ về tiếp cận tài nguyên di truyền, kiến thức truyền thống và văn hóa dân gian (the Intergovernmental Committee (IGC) on Access to Genetic Resources, Traditional Knowledge and Folklore) và Nhóm công tác về cải cách Hiệp định hợp tác về bằng sáng chế.
Tháng 10 năm 2004, WIPO đồng ý thông qua đề xuất của Argentina và Brazil về thiết lập một chương trình nghị sự phát triển cho WIPO – trên cơ sở của Tuyên bố Geneva về tương lai của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới. Đề xuất này đã nhận được sự ủng hộ từ các nước đang phát triển. Một số cơ quan dân sự xã hội đã bắt đầu làm việc trên Dự thảo về tiếp cận kiến thức (Draft of Access to Knowledge – A2K).
Trong lần trao đổi với tờ Bưu điện Washington vào năm 2003, Lois Boland đã nói rằng “phần mềm mã nguồn mở đang chống lại nhiệm vụ thúc đẩy quyền sở hữu trí tuệ của WIPO”. Ông cũng cho rằng, “để tổ chức một cuộc họp với mục đích là từ chối hoặc từ bỏ những quyền đó có lẽ sẽ đi ngược lại tôn chỉ của WIPO.
4. Ý nghĩa của bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ khuyên khích tạo động lực cho sự sáng tạo, thúc đẩy những nỗ lực, cống hiến của nhiều cá nhân vào hoạt động cải tiến kĩ thuật, nghiên cứu khoa học nhằm tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội.
Sở hữu trí tuệ là kết quả của một quá trình sáng tạo, đầu tư trí tuệ, tiền bạc, công sức của cá nhân, tổ chức. Hoạt động sáng tạo trí tuệ mong muốn đạt được những lợi ích nhất định trong việc nghiên cứu. Bằng việc bảo hộ tài sản trí tuệ, nhà nước khuyến khích và hỗ trợ những tổ chức, cá nhân sáng tạo nhiều hơn. Bởi bảo hộ tài sản trí tuệ sẽ đảm bảo quyền ( quyền nhân thân và quyền tài sản) của các chủ sở hữu đối với sản phẩm mà mình sáng tạo ra.
Đối với chủ thể sản xuất, kinh doanh
Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cũng góp phần giảm thiểu tổn thất cho các nhà sản xuất, kinh doanh và thúc đẩy họ phát triển sản xuất và kinh doanh hợp pháp.
Đối với người tiêu dùng
Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả sẽ giúp cho người tiêu dùng có cơ hội lựa chọn và được sử dụng các dịch vụ, hàng hóa chất lượng cao, đáp ứng được các nhu cầu của người tiêu dùng. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đã hạn chế được các hành vi vi phạm sở hữu trí tuệ, tạo ra hàng nhái hay hàng kém chất lượng và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác.
Đối với quốc gia
Sở hữu trí tuệ được khẳng định là “một công cụ đắc lực để phát triển kinh tế”, cho nên việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh. Đây là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thu hút chuyển giao công nghệ, nhận được đầu tư nước ngoài.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, cùng với sự luân chuyển mạnh mẽ và liên tục của các tài sản hữu hình cũng như tài sản vô hình giữa các quốc gia, việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ còn góp phần bảo vệ lợi ích quốc gia.
“Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là nghĩa vụ bắt buộc và là điều kiện tiên quyết đối với các quốc gia là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới và với những quốc gia muốn trở thành thành viên của Tổ chức này. Nhiều nước, đặc biệt là các nước phát triển, đã coi việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một điều kiện không thể thiếu để thiết lập mối quan hệ thương mại, việc thực hiện không đầy đủ về việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có thể tạo ra sự căng thẳng về thương mại’’.
Bên cạnh đó, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ còn góp phần trong việc thúc đẩy hoạt động thương mại lành mạnh trên phạm vi toàn cầu.
5. Lý do bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là gì?
Bất cứ khi nào có một sản phẩm mới vào thị trường và thu hút khách hàng thành công, không sớm thì muộn sẽ bị đối thủ cạnh tranh sản xuất các sản phẩm giống hoặc tương tự. Trong nhiều trường hợp, đối thủ cạnh tranh có tiềm lực tài chính mạnh, có mối quan hệ tốt hơn với các nhà phân phối, hoặc có nguồn nguyên liệu giá rẻ,… họ có thể sản xuất một sản phẩm tương tự hoặc giống hệt với giá rẻ hơn, tạo áp lực nặng nề lên nhà sáng tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ nguyên gốc.
Chính điều này sẽ đẩy nhà sáng tạo gốc ra khỏi thị trường, đặc biệt khi mà họ đã đầu tư đáng kể vào việc phát triển sản phẩm mới thì đối thủ cạnh tranh lại hưởng lợi từ kết quả đầu tư đó và chẳng mất một xu nào cho thành quả sáng tạo của nhà sáng tạo gốc. Đây là lý do quan trọng duy nhất để các doanh nghiệp phải cân nhắc khi sử dụng hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ để bảo vệ sản phẩm trí tuệ của mình.
Khi đó, tác giả sẽ được độc quyền sử dụng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu, các tác phẩm văn học nghệ thuật và các tài sản vô hình khác,… mà họ sáng tạo ra. Pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ sẽ hạn chế phạm vi sao chép và bắt chước của đối thủ cạnh tranh một cách đáng kể.
Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng!
Luật LVN Group (Sưu tầm và biên tập).