Một trong những thách thức lớn nhất đối với tiến trình cải cách tư pháp tại Việt Nam là xây dựng phương thức tốt nhất để gắn kết và đảm bảo sự thống nhất hoạt động giữa các cơ quan tư pháp. Cải cách tư pháp cần được đặt trong tầm nhìn thống nhất của hệ thống tư pháp tổng thể, với các cơ sở lý luận rõ ràng về các chức năng của từng cơ quan tư pháp và mối liên hệ giữa chúng. Để giải quyết được bài toán này, thì một trong những nội dung quan trọng cần làm là nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp tại một số nước.
>> Luật sư tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến (24/7) gọi số: 1900.0191
Với mục tiêu hỗ trợ cho nghiên cứu ban đầu, chúng tôi chỉ đưa ra phân tích tóm lược về tổ chức và hoạt động các cơ quan tư pháp tại bốn nước Trung Quốc, Nhật Bản, Xinh-ga-po và Ốt -trây -li-a.
1. Nhật Bản
Nhật Bản là một nước quân chủ lập hiến với lưỡng viện Quốc hội được bầu cử dân chủ. Đảng Dân chủ Tự do (thực ra là đảng chính trị bảo thủ) đang có thời gian dài chiếm đa số ghế trong Quốc hội. Tuy nhiên, Nhật Bản có nhiều đảng đối lập đáng kể, lớn nhất là Đảng Dân chủ, hiện đang nắm số ghế lớn nhất trong tất cả các đảng đối lập tại Thượng viện.
1.1. Cơ quan Cảnh sát quốc gia không chịu sự giám sát trực tiếp của Quốc hội
Các cơ quan điều tra hình sự tại Nhật Bản nằm dưới sự chỉ đạo của cảnh sát. Lực lượng cảnh sát Nhật Bản được tổ chức thành 47 khu vực (bao gồm lực lượng cảnh sát quận, cảnh sát thủ đô Tokyo và cảnh sát quận Hokkaido). Mỗi một lực lượng cảnh sát được hưởng quyền tự trị khu vực. Các lực lượng cảnh sát quận chịu sự giám sát của các Hội đồng an ninh quận. Tuy nhiên, các lực lượng cảnh sát quận được phối hợp hành động quốc gia bởi Cơ quan Cảnh sát quốc gia (NPA). NPA ban hành các chính sách và có quyền tiếp quản lực lượng cảnh sát quận trong trường hợp khẩn cấp quốc gia. Cảnh sát thủ đô Tokyo và cảnh sát quận Hokkaido nằm dưới sự quản lý độc lập của NPA, mặc dù NPA vẫn duy trì các bộ phận liên lạc để hợp tác với các lực lượng khác. Lực lượng cảnh sát Nhật Bản có sự độc lập với Chính phủ. NPA không chịu sự giám sát trực tiếp của Quốc hội, nhưng chịu sự giám sát của Hội đồng an ninh quốc gia (NPSC). NPSC gồm một Bộ trưởng giữ vai trò Chủ tịch và 5 Uỷ viên được Thủ tướng bổ nhiệm, nhiệm kỳ 5 năm với sự thông qua của hai viện Quốc hội. NPSC có thể bổ nhiệm hoặc sa thải các lãnh đạo của NPA (với sự thông qua của Thủ tướng). NPSC còn bổ nhiệm và sa thải người đứng đầu lực lượng cảnh sát quận (với sự thông qua của Hội đồng an ninh quận có liên quan) và người đứng đầu lực lượng cảnh sát thủ đô Tokyo (với sự thông qua của Thủ tướng và Hội đồng an ninh thủ đô Tokyo).
Các cơ quan đặc biệt khác như Cơ quan Thông tin an ninh và Hội đồng giám sát tội phạm và an ninh cũng có vai trò điều tra, như các công tố viên thực hiện. Nếu cơ quan này cho rằng đó là một vụ án hình sự, vụ án sẽ được chuyển tới Viện Công tố quốc gia.
1.2. Viện công tố có vai trò tích cực trong giai đoạn điều tra vụ án
Các viện công tố nằm dưới sự quản lý của Viện Công tố quốc gia. Tư tố không tồn tại. Trong khi Bộ trưởng Bộ Tư pháp có trách nhiệm trong việc giám sát chung đối với Viện Công tố quốc gia, Điều 14 của Luật Viện Công tố quốc gia lại ngăn chặn sự can thiệp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp vào việc chỉ đạo các vụ án (trừ các cuộc điều tra được chỉ đạo bởi Viện trưởng Viện Công tố quốc gia).
Viện Công tố quốc gia có trách nhiệm toàn bộ đối với quyết định có truy tố hay không. Theo Điều 248 Bộ luật Tố tụng Hình sự, công tố viên có thể cho rằng việc truy tố không cần thiết trên cơ sở nhân thân và độ tuổi của bị cáo, tính nguy hiểm của hành động phạm tội và hoàn cảnh tại thời điểm trước và sau hành động phạm tội. Về quan hệ nội bộ, quyết định truy tố phải được sự thông qua của hai hoặc ba cán bộ lãnh đạo trực tiếp công tố viên. Điều này giúp đảm bảo sự chắc chắn trong hành động truy tố.
Sự giám sát, mang tính không bắt buộc, đối với các quyết định không truy tố có thể được thực hiện bởi một trong các Hội đồng giám sát công tố của Nhật Bản (tiếng Nhật là kensatsu shinsakai), mỗi Hội đồng này gồm 11 công dân. Tuy nhiên, sự giám sát này ít khi đề nghị Công tố viên xem xét lại quyết định của họ.
Ngoài nhiệm vụ truy tố tội phạm, các công tố viên Nhật Bản được chỉ đạo các hoạt động điều tra ban đầu; hoạt động điều tra độc lập và phối hợp hoạt động với cảnh sát. Các công tố viên còn chỉ đạo trực tiếp cảnh sát trong hoạt động điều tra của họ. Các Công tố viên có quyền kháng nghị hình phạt và sự tha bổng, mặc dù họ hiếm khi sử dụng quyền này.
1.3. Tái lập chế định bồi thẩm đoàn
Tòa án Nhật Bản có 4 cấp. Tòa án giản lược xét xử các vụ kiện nhỏ và vụ án hình sự không nghiêm trọng. Tòa án quận xét xử các vụ án nghiêm trọng và các tranh chấp hơn 1.400.000 Yên. Hệ thống Tòa án gia đình gắn với Tòa án quận. Tòa án cấp cao xét xử phúc thẩm các vụ án từ tòa án giản lược, tòa án gia đình và tòa án quận. Tòa án tối cao là cấp xét xử cuối cùng.
Sự độc lập của tòa án và các thẩm phán được quy định tại Điều 76 của Hiến pháp Nhật Bản. Theo Điều 76 Hiến pháp Nhật bản, Thẩm phán chỉ có thể bị thay bởi không đủ sức khỏe hoặc nhận thức. Việc bổ nhiệm các thẩm phán Tòa án tối cao phải được thông qua bởi cuộc bỏ phiếu toàn thể tại Hạ viện. Nhiệm kỳ Thẩm phán tối cao là 10 năm (Điều 79). Chánh án Tòa án tối cao được bổ nhiệm bởi Nhật Hoàng với sự đề xuất của Chính phủ (Điều 6); tất cả các thẩm phán khác của Tòa án tối cao được bổ nhiệm bởi Chính phủ. Các Thẩm phán ở Tòa án cấp thấp hơn được lựa chọn bởi Chính phủ từ danh sách các ứng viên được đề cử bởi Tòa án tối cao.
Điều 38 Hiến pháp Nhật Bản quy định việc buộc tội không chỉ dựa trên việc nhận tội. Tội phạm phải được chứng minh trong mọi trường hợp, không loại trừ việc bị cáo thú tội hay không. Tỷ lệ buộc tội tại Nhật Bản là rất cao, thường đạt 99,9%. Lập luận đưa ra cho thực trạng này (tức là tỷ lệ buộc tội cao) là các vụ án đã được xem xét kỹ lưỡng trước khi tiến hành truy tố. Tuy nhiên, sự tin tưởng của tòa án vào các hồ sơ của Công tố viên – trong một số trường hợp Tòa án chỉ đơn thuần chứng nhận các hồ sơ của Công tố viên – bị chỉ trích bởi các nhà phân tích.
Nhật Bản đã có lịch trình để tái thành lập hệ thống Bồi thẩm vào ngày 21/5/2009. Hệ thống Bồi thẩm tồn tại tại Nhật Bản từ năm 1923 đến 1943, các bị cáo lựa chọn xét xử bằng Bồi thẩm đoàn ít hơn 2% các vụ án. Theo hệ thống mới, bồi thẩm đoàn (tiếng Nhật là saibanin) và các thẩm phán sẽ điều khiển và cùng quyết định các vụ án nghiêm trọng. Hội đồng xét xử gồm 06 bồi thẩm và 03 thẩm phán, trừ khi tội lỗi của bị cáo đã rõ ràng, không có nhiều tranh cãi, thì Hội đồng chỉ cần có 04 Bồi thẩm và 01 Thẩm phán.
2. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là một nước xã hội chủ nghĩa. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất. Các đại biểu của mỗi cấp Hội đồng nhân dân được bỏ phiếu bởi cấp thấp hơn. ở cấp thấp nhất, đại biểu được bỏ phiếu trực tiếp bởi nhân dân.
2.1. Cần phải lập hồ sơ vụ án hình sự
Vụ án hình sự phải được lập hồ sơ, hoặc ghi lại chính thức, trước khi tiến hành điều tra. Theo cách đó, Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát phải lập hồ sơ vụ án hình sự để xác định sự thật, chứng minh tội phạm. Tương tự, nếu Tòa án, Viện kiểm sát hoặc Cơ quan điều tra nhận được báo cáo, tố cáo hoặc thông tin khác và cho rằng, có cơ sở để điều tra, thì phải lập hồ sơ vụ án. Viện kiểm sát có thể yêu cầu cơ quan điều tra đưa ra lý do tại sao không lập hồ sơ vụ án (bởi Viện kiểm sát hoặc nạn nhân cho rằng cần phải lập hồ sơ) và, nếu lý do đưa ra không phù hợp, Viện kiểm sát sẽ ra lệnh cho Cơ quan điều tra lập hồ sơ. Tiếp theo việc lập hồ sơ vụ án, Cơ quan điều tra phải tiến hành hoạt động điều tra.
Trong điều tra tội phạm, Cơ quan điều tra có thẩm quyền áp dụng hình phạt giam giữ hành chính là “lao động cải tạo” không thông qua xét xử tại tòa án. Chính phủ Trung Quốc gần đây đã tuyên bố hình phạt này sẽ được hủy bỏ từng bước, tuy nhiên hệ thống này vẫn chưa được xóa bỏ hẳn.
2.2. Quyền công tố và kiểm sát tư pháp
Viện kiểm sát nhân dân có chức năng truy tố các tội phạm hình sự. Viện kiểm sát được tổ chức thành 4 cấp, tương ứng với tổ chức của tòa án. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (SPP) là cơ quan cao nhất và chỉ đạo tất cả các Viện kiểm sát địa phương. SPP có trách nhiệm báo cáo Quốc hội và ủy ban Thường vụ Quốc hội. Các Viện kiểm sát địa phương có trách nhiệm báo cáo Hội đồng nhân dân cấp tương đương và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.
Khi có hồ sơ chuyển cho Viện kiểm sát để truy tố (bởi cơ quan điều tra nội địa hoặc cơ quan an ninh), Viện kiểm sát phải kiểm tra vụ án về: sự thật và hoàn cảnh của tội phạm có rõ ràng không, bằng chứng đó có đáng tin cậy và đầy đủ không, hình phạt và tội danh đã được quyết định đúng chưa, có nên điều tra các tội phạm hoặc bị cáo khác hay không, vụ án có nên là đối tượng để điều tra hình sự không.
Trong quá trình điều tra, Viện kiểm sát có thể chỉ đạo Cơ quan điều tra tiến hành điều tra bổ sung, hoặc có thể lựa chọn để tiến hành điều tra bổ sung các nội dung Viện kiểm sát thấy cần thiết. Ngoài vai trò truy tố, Viện kiểm sát có thể tiến hành kiểm sát sự vi phạm pháp luật – kiểm sát tư pháp.
2.3. Tòa án xây dựng theo mô hình bốn cấp
Trung Quốc xây dựng hệ thống tòa án 4 cấp gồm Tòa án nhân dân tối cao, có trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội và ủy ban Thường vụ Quốc hội, và 3 cấp Tòa án nhân dân khu vực (Tòa án nhân dân sơ cấp, Tòa án nhân dân trung cấp và Tòa án nhân dân cao cấp). Ngoài ra còn có một số Tòa án đặc biệt, ví dụ Tòa án hàng hải và quân sự. Các tòa án là độc lập, tuy nhiên vẫn lệ thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Các vụ án thủ tục rút gọn được xét xử tại Tòa án sơ cấp, có thể do một Thẩm phán xét xử. Tại tòa án sơ cấp và trung cấp, phiên tòa được điều khiển bởi Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán hoặc hỗn hợp Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Các vụ án xét xử lần đầu tại Tòa án cao cấp hoặc Tòa án tối cao, phiên tòa được điều khiển bởi hội đồng xét xử gồm 3-5 hoặc 7 người; trong đó, tất cả là Thẩm phán hoặc hỗn hợp Thẩm phán và hội Thẩm nhân dân.
3. Xinh-ga-po
Xinh-ga-po là nước dân chủ, Quốc hội chỉ có một viện, với đặc trưng được lãnh đạo bởi một đảng – Đảng Hành động nhân dân.
3.1. Cơ quan điều tra hình sự
Lực lượng Cảnh sát Xinh -ga-po là Cơ quan chính yếu có nhiệm vụ phát hiện, điều tra và ngăn chặn tội phạm. Các cơ quan khác, gồm Cơ quan phòng chống ma túy trung ương, Cơ quan hải quan và nhập cư và Văn phòng quản lý nguồn lao động nước ngoài, tiến hành chức năng của nó trong lĩnh vực chuyên ngành.
Lực lượng Cảnh sát Xinh -ga-po được quản lý bởi một ủy viên cao cấp chịu trách nhiệm trước Bộ Các vấn đề Nội địa. ủy viên cao cấp này được bổ nhiệm bởi Tổng thống theo đề xuất của Chính phủ. Tổng thống có thể phản đối hay rút lại quyết định bổ nhiệm nếu không đồng ý với Chính phủ.
3.2. Quyền năng của Viện Công tố và thủ tục thỏa hiệp vụ án giữa Công tố viên và Luật sư
Điều 35 (8) Hiến pháp Xinh -ga-po trao quyền “khởi động tiến trình điều tra, chỉ đạo hoặc đình chỉ điều tra bất cứ quá trình điều tra về tội phạm” cho Tổng Chưởng lý. Bộ luật Tố tụng hình sự quy định Tổng Chưởng lý là người kiểm soát và chỉ đạo tất cả công việc và quy trình công tố trên cơ sở Bộ luật này và một Cố vấn pháp lý cao cấp là Phó tổng Chưởng lý.
Các công dân hoặc các đại diện cho cơ quan Chính phủ có thể khởi kiện vụ án rút gọn (xét xử theo thủ tục rút gọn) trước Tòa án địa phương hoặc vụ án không kê biên tài sản (thủ tục rút gọn) trước tòa án quận; chỉ có Tổng Chưởng lý và Phó tổng Chưởng lý mới tiến hành truy tố tại Tòa án cao cấp, truy tố các vi phạm pháp luật liên quan đến kê biên tài sản trước Tòa án quận, hoặc chỉ đạo điều tra trước Tòa án địa phương.
Về mặt tổ chức, quyền truy tố của Tổng Chưởng lý được thực hiện (hay hỗ trợ) bởi Văn phòng Tổng Chưởng lý. Văn phòng Tổng Chưởng lý ủy quyền trách nhiệm truy tố các trường hợp phạm tội vị thành niên cho Cơ quan truy tố của cảnh sát. Văn phòng Tổng Chưởng lý chỉ đạo các cơ quan thực thi pháp luật trong các cuộc điều tra thuộc thẩm quyền của Tổng Chưởng lý và trả lời các yêu cầu từ các Cơ quan điều tra về các tư vấn pháp lý khi bất cứ vụ án nào được khám phá.
Một quy trình khác lạ được thực hiện bởi các công tố viên là Hệ thống quản lý vụ án hình sự. Theo Hệ thống này, công tố viên và Luật sư của LVN Group bào chữa gặp nhau, thậm chí trước khi diễn ra phiên tòa, để tiến hành kiểm tra lại các vấn đề tranh cãi và có thể thỏa thuận sự biện hộ. Vụ án có thể kết thúc trước khi diễn ra phiên tòa xét xử.
3.3. Tòa án theo mô hình hai cấp
Xinh-ga-po xây dựng hệ thống Tòa án hai cấp. Cơ quan cao nhất là Tòa án tối cao, gồm có Tòa án phúc thẩm và Tòa án cấp cao. Tất cả cácTòa án khác, gồm Tòa án sơ cấp, Tòa án quận và Tòa án chuyên ngành như Tòa án gia đình, Tòa án vị thành niên… được xếp vào loại Tòa án Cấp thấp. Quyền xét xử của Tòa án tối cao và Tòa án Cấp thấp được quy định tại Điều 93 Hiến pháp Xinh -ga-po.
Chánh án Tòa án tối cao, Thẩm phán tòa án phúc thẩm và Thẩm phán Tòa án cao cấp, theo Điều 95 (1) của Hiến pháp, được Tổng thống bổ nhiệm “Tổng thống, hành động trong thẩm quyền của mình, phê chuẩn sự đề nghị của Thủ tướng”. Thủ tướng cần hỏi ý kiến Chánh án Tòa án tối cao trước khi đưa ra đề nghị bổ nhiệm một Thẩm phán theo Điều 95 (2) của Hiến pháp. Tương tự, Thẩm phán của Tòa án Cấp thấp và Thẩm phán sơ cấp được bổ nhiệm bởi Tổng thống theo đề nghị của Chánh án Tòa án tối cao.
Tòa án tổ chức các buổi họp tiền xét xử trong các vụ án hình sự để xem xét các vụ án chưa đưa ra xét xử. Các cuộc họp có thể mở rộng thêm các thành phần công tố viên, bị cáo, các cơ quan tư pháp liên quan (như cơ quan bổ trợ tư pháp) và việc này sẽ làm giảm áp lực tại Tòa, giảm bớt số lượng các vụ án phải đưa ra xét xử tại Tòa và thu hẹp các vấn đề tranh luận.
Tòa án sơ cấp có thể xét xử tội phạm với hình phạt không quá ba năm tù hoặc chỉ phạt tiền. Tòa án quận có thể xét xử vụ án với hình phạt không quá mười năm tù hoặc chỉ phạt tiền. Tại tòa án sơ cấp, sự phạm tội được xét xử theo thủ tục rút gọn bởi một Thẩm phán sơ cấp; tương tự, sự phạm tội được xét xử tại Tòa án quận theo thủ tục rút gọn bởi một Thẩm phán. Các phiên Tòa của tòa án cấp cao cơ bản được điều khiển bởi một Thẩm phán, trừ khi có yêu cầu khác. Không có phiên Tòa xét xử bởi bồi thẩm đoàn tại Xinh -ga-po.
Trước khi phiên tòa được tổ chức tại Tòa án cấp cao, Thẩm phán sẽ nghiên cứu sơ bộ để quyết định có nên đưa bị cáo ra xét xử, hoặc đình chỉ vụ án, hoặc quyết định bị cáo được xét xử bằng thủ tục rút gọn tại tòa án sơ cấp hoặc tòa án quận.
Nếu bị cáo tuyên bố nhận tội, các Tòa án thường kết án trên cơ sở lời nhận tội đó mà không tiến hành xét xử vụ án và tiến hành luôn việc tuyên hình phạt. Tuy nhiên, là bắt buộc đối với trường hợp tử hình, Tòa án có thể yêu cầu Viện công tố đưa ra giải thích về vụ án này theo bất cứ cách nào.
4. Ốt -trây -li-a
Ốt-trây -li-a là nước quân chủ lập hiến với nhiều đảng dân chủ. Ốt -trây -li-a theo mô hình nhà nước liên bang và tổ chức của hệ thống tư pháp được phân chia giữa các bang, vùng lãnh thổ và liên bang. Sự phân chia quyền lực được quy định trong Hiến pháp Ốt -trây -li-a, theo đó, chính quyền liên bang có thể thông qua luật liên quan đến các khu vực xác định rõ ràng. Mặt khác, các bang có thẩm quyền rộng để ban hành bất cứ luật nào, với điều kiện nó không mâu thuẫn với luật liên bang.
4.1. Tính độc lập cao của Cảnh sát liên bang
Cảnh sát liên bang Ốt -trây -li-a (AFP) là cơ quan liên bang chính yếu có nhiệm vụ phát hiện, điều tra và ngăn chặn sự vi phạm pháp luật hình sự liên bang. Các nhiệm vụ này (cùng với các vai trò phụ trợ khác, như giữ gìn hòa bình khu vực) được luật hóa (Đạo luật Cảnh sát liên bang Ốt -trây -li-a 1979 – Đạo luật AFP).
Người đứng đầu AFP chỉ báo cáo với Bộ trưởng Các vấn đề Nội địa về hoạt động của AFP và Bộ trưởng đưa ra Tuyên bố phác thảo các ưu tiên và đòi hỏi của Chính phủ đối với AFP, ngoài ra, AFP có sự độc lập trong hoạt động. Theo đó, Bộ trưởng Các vấn đề Nội địa không thể ra lệnh điều tra trừ một số ít trường hợp ngoại lệ (ví dụ, Bộ trưởng Các vấn đề Nội địa có thể ra lệnh điều tra tư cách các nhân viên AFP theo Điều 40UA của Đạo luật AFP). AFP có thể đòi hỏi giải thích pháp luật từ Tổng Chưởng lý liên bang (CDPP), ngược lại, Tổng Chưởng lý liên bang không thể chỉ đạo AFP điều tra.
Các cơ quan độc lập khác được quy định tại các lĩnh vực chuyên ngành. Chẳng hạn, Cơ quan Đầu tư và Chứng khoán quốc gia đảm bảo thực thi các luật về công ty liên bang và dịch vụ tài chính, ngăn chặn tội phạm liên công ty; Cơ quan tội phạm Ốt -trây -li-a chuyên trách chống tội phạm có tổ chức. Các cơ quan thực thi pháp luật chuyên ngành thường phối hợp hoạt động với AFP. Vị trí của các cơ quan này, giống như AFP, được quy định tại luật liên bang.
4.2. Tổng Chưởng lý liên bang vừa độc lập vừa gắn kết với các cơ quan tư pháp khác
Khi các cơ quan thực thi pháp luật liên bang tập hợp đầy đủ các bằng chứng để chứng minh tội phạm, họ sẽ gửi bản báo cáo tóm tắt đến CDPP để truy tố. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các cơ quan chuyên ngành như Cơ quan Thuế, Cơ quan Đầu tư và Chứng khoán và Cơ quan Bầu cử có thể đảm nhận quá trình này bằng sự thỏa thuận với CDPP.
Vị trí và quyền truy tố của CDPP được luật hóa. Điều quan trọng, giống như AFP, CDPP có sự độc lập cơ bản với cơ quan hành pháp, tòa án và cơ quan khác trong hệ thống tư pháp. Bởi vậy, các cơ quan điều tra không thể buộc CDPP tiến hành truy tố. CDPP đánh giá có tiếp tục quá trình tố tụng hay không với việc truy tố dựa trên các tiêu chuẩn giá trị cộng đồng. Trên cơ sở các tiêu chuẩn này, CDPP chỉ truy tố nếu có đầy đủ bằng chứng và nếu việc truy tố vì lợi ích cộng đồng.
Mặc dù CDPP có sự độc lập hoàn toàn với các cơ quan điều tra, CDPP vẫn thúc đẩy mạnh mối liên lạc với các cơ quan này. Để thực hiện mục tiêu đó, CDPP đưa ra các đề nghị pháp lý đối với các cơ quan khác, trong khi CDPP tổ chức các cuộc bàn thảo với các cơ quan điều tra về các chủ đề chuyên biệt như rửa tiền, gian lận tiền phúc lợi xã hội, gian lận thuế, hoạt động mại dâm trẻ em trên mạng.
CDPP còn có thẩm quyền tạo ra sự đảm bảo chắc chắn sẽ không truy tố hoặc sử dụng bằng chứng chống lại một cá nhân. Thẩm quyền này có mục đích khuyến khích các nhân chứng tới phiên tòa xét xử và đưa ra bằng chứng ngay thực.
Cá nhân có thể khởi kiện tội phạm cấp liên bang. Tuy nhiên, CDPP có quyền tiếp quản hoặc chấm dứt việc khởi kiện cá nhân (Điều 9 (5)). Quyền năng này đã được sử dụng 11 lần vào năm 2006-2007 liên quan đến truy tố tổng cộng 50 người. Báo cáo hàng năm của CDPP lưu ý nhiều lời buộc tội hướng vào sự bất tín nhiệm đối với Cảnh sát, Thẩm phán, Thẩm phán địa phương và Công tố viên. Trong năm 2007-2008, quyền năng này chỉ được sử dụng một lần.
4.3 Tòa án và Phán quyết Boilermaker
Các bang và vùng lãnh thổ có ba cấp Tòa: Tòa án tối cao bang, Tòa án sơ cấp, Tòa án trung cấp – được gọi là Tòa án quận hay Tòa dân sự tùy thuộc vào thẩm quyền tư pháp. Trừ bang Tasmania và hai vùng lãnh thổ chỉ có hai cấp Tòa: Tòa án sơ cấp và Tòa án tối cao bang.
Tòa án Magistrates liên bang, liên quan đến việc thực thi các đạo luật liên bang, hoạt động song song với Tòa án bang và Tòa án vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, Tòa án Magistrates liên bang không có quyền xét xử hình sự và bởi vậy, các vụ án xét xử cấp liên bang được chỉ dẫn đến các Tòa án bang và Tòa án vùng lãnh thổ.
Tòa án tối cao liên bang là Tòa án phúc thẩm đối với các vụ án của Tòa án Magistrates liên bang, Tòa án bang và Tòa án vùng lãnh thổ. Tòa án tối cao liên bang có thể thực hiện việc xét xử lần đầu, nhưng hiếm.
Các tội phạm cấp liên bang theo thủ tục rút gọn được xét xử bởi một Thẩm phán sơ cấp tại tòa án sơ cấp. Các tội phạm nghiêm trọng cấp bang được xét xử bởi một Thẩm phán và một bồi thẩm đoàn tại Tòa án trung cấp hoặc Tòa án tối cao bang.
Sự độc lập hoàn Toàn của Tòa án thể hiện trong pháp luật liên bang, và bảo đảm bởi phán quyết Boilermakers đối với Tòa án tối cao liên bang, được quy định trong Hiến pháp. Phán quyết Boilermaker áp dụng cho cả Tòa án Magistrates liên bang, Tòa án bang và Tòa án vùng thể hiện trong pháp luật liên bang. Điều này quan trọng khi các tội phạm cấp bang được xét xử tại Tòa án bang và Tòa án vùng.
Bị cáo có quyền lựa chọn tuyên bố có tội hoặc vô tội đối với những lý lẽ đưa ra của cáo trạng. Trường hợp bị cáo nhận tội trực tiếp dẫn đến việc kết tội thì Tòa án chỉ có nhiệm vụ cân nhắc hình phạt. Nếu bị cáo không nhận tội, tòa án xem xét bằng chứng đưa ra từ phía công tố viên và bị cáo hoặc Luật sư của họ trước khi đưa ra phán quyết. Trong quá trình đưa ra phán quyết, vấn đề quan tâm thích đáng là việc Công tố viên đưa ra bằng chứng có đủ sức nặng để chứng minh bị cáo phạm tội và vượt qua sự hoài nghi có cơ sở.
Nguyễn Hà Thanh – Văn phòng Trung ương Đảng
Nguồn: Nclp.org.vn
Nhìn vào hệ thống cơ quan tư pháp của nước ta theo hiện nay, có thể nhận ra việc ta có tiếp thu một số ưu điểm của các nước bạn, cụ thể như sau:
1. Về hệ thống tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân
Theo quy định của Luật tổ chức TAND năm 2014 thì TAND được phân thành 4 cấp lần lượt là TAND tối cao, TAND cấp cao, TAND cấp tỉnh và TAND cấp huyện.
Như vậy, việc tổ chức hệ thống TAND theo 4 cấp đã giải quyết được vấn đề về tính khách quan trong hoạt động xét xử mà Luật tổ chức TAND năm 2002 gặp phải.
Ví dụ: Theo quy định của các luật tố tụng, trong một số trường hợp cụ thể, vụ án (dân sự, hình sự, hành chính) phải do TAND cấp tỉnh giải quyết sơ thẩm.
– Theo Luật tổ chức TAND năm 2002:
Nếu bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì: Tòa phúc thẩm, TAND tối cao có thẩm quyền giải quyết.
Nếu bản án, quyết định sơ thẩm, bản án, quyết định phúc thẩm bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì: TAND tối cao có thẩm quyền giải quyết.
Như vậy, khó có thể chắc chắn hoạt động giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ hoàn toàn độc lập bởi lẽ tòa án cấp phúc thẩm và giám đốc thẩm đều dính dáng trực tiếp đến TAND tối cao.
– Theo Luật tổ chức TAND năm 2014:
Nếu bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì: TAND cấp cao có thẩm quyền giải quyết.
Nếu bản án, quyết định sơ thẩm, bản án, quyết định phúc thẩm bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì: TAND tối cao có thẩm quyền giải quyết.
Theo mô hình 4 cấp thì tính độc lập trong việc giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ được bảo đảm.
Việc tổ chức hệ thống VKSND theo 4 cấp để tương thích với tổ chức hệ thống TAND, cũng với mục đích tương tự.
2. Về hệ thống cơ quan điều tra