Điều 169, luật hình sự năm 1999 quy định về tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ, nội dung:
1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội nhiều lần;
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.
————————————————————————————-
PHÂN TÍCH TỘI CỐ Ý LÀM TRÁI QUY ĐỊNH VỀ PHÂN PHỐI TIỀN, HÀNG CỨU TRỢ
Đây là loại tội phạm có chủ thể đặc biệt (những người có chức vụ, quyền hạn); hành vi đó phải gây hậu quả nghiêm trọng, nếu chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì chưa phải chịu trách nhiệm hình sự.
Người phạm tội cố ý làm trái những quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là làm trái quy định về phân phối, nhưng với nhiều phương thức khác nhau: Không phân phối; phân phối không đúng đối tượng; phân phối không đúng số tiền, số hàng mà Nhà nước quy định người được cứu trợ…
Hậu quả đối với tội phạm này là phải gây hậu quả nghiêm trọng, đây là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu hành vi làm trái đó chưa gây hậu quản nghiêm trọng thì người đó chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà căn cứ vào hành vi, mức độ lỗi các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử lý cho phù hợp với pháp luật.
Như Luật sư của LVN Group đã nêu thì ông là công dân đang sinh sống tại địa phương, nếu phát hiện thấy những hành vi sai trái của cán bộ có thẩm quyền thì phải có trách nhiệm kiến nghị, phản ánh với các cơ quan có thẩm quyền từ cơ sở đến cơ quan cấp huyện, tỉnh để làm rõ. Việc thực hiện kiến nghị cũng là trách nhiệm của công dân trong thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, nhằm đấu tranh chống những biểu hiện, tiêu cực, tham nhũng trong tình hình hiện nay.
Luật sư tư vấn luật hình sự trực tuyến – Ảnh minh họa
—————————————————————————-
PHÂN TÍCH KHÍA CẠNH PHÁP LÝ KHÁC CỦA HÀNH VI PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC CỦA
TỘI CỐ Ý LÀM TRÁI QUY ĐỊNH PHÂN PHỐI TIỀN:
Theo khoản 3 Điều 20 Bộ luật hình sự thì, phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm (khoản 1 Điều 20 Bộ luật hình sự).
Như vây, phạm tội có tổ chức, là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện một tội phạm, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.
Phạm tội có tổ chức, là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia. Trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 20 thì, người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Chỉ trong trường hợp phạm tội có tổ chức mới có người tổ chức. Người tổ chức có thể có những hành vi như: khởi xướng việc tội phạm; vạch kế hoạch thực hiện tội phạm cũng như kế hoạch che giấu tội phạm; rủ rê, lôi kéo người khác cùng thực hiện tội phạm; phân công trách nhiệm cho những người đồng phạm khác để thống nhất thực hiện tội phạm; điều khiển hành động của những người đồng phạm; đôn đốc, thúc đẩy người đồng phạm khác thực hiện tội phạm…
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Trực tiếp thực hiện tội phạm là trực tiếp có hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm như: trực tiếp cầm dao chém nạn nhân, cầm súng bắn nạn nhân, trực tiếp chiếm đoạt tài sản, trực tiếp nhận hối lộ v.v… Người thực hành là người có vai trò quyết định việc thực hiên tội phạm, vì họ là người trực tiếp thực hiên tội phạm. Dù là đồng phạm giản đơn hay phạm tội có tổ chức thì bao giờ cũng có người thực hành. Nếu không có người thực hành thì tội phạm chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, mục đích tội phạm không được thực hiện; hậu quả vật chất của tội phạm chưa xảy ra và trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác sẽ được xem xét theo quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự ( chỉ chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự ). Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác rõ ràng phụ thuộc vào hành vi của của người thực hành.
Thực tiễn xét xử cho thấy, không phải bao giờ người thực hành cũng thực hiện đúng những hành vi do các đồng phạm khác đặt ra, có trường hợp người thực hành tự ý không thực hiện tội phạm hoặc tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiên tội phạm, nhưng thực tế cũng không ít trường hợp người thực hành tự ý thực hiện những hành vi vượt quá yêu cầu của các đồng phạm khác đặt ra, Khoa học luật hình sự gọi là hành thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm. Luật hình sự của nhiều nước ghi ró chế định “ thái quá’ của người thực hành trong Bộ luật hình sự hoặc trong các văn bản luật hình sự. ở nước ta chế định này chưa được ghi trong Bộ luật hình sự, nhưng về lý luận cũng như thực tiến xét xử đều thừa nhận chế định này khi cần phải xem xét đến trách nhiệm hình sự của người thực hành cũng như những người đồng phạm khác trong một vụ án có đồng phạm. Hiện nay, đa số ý kiến cho rằng khi Bộ luật hình sự của nước ta được sửa đổi bổ sung một cách căn bản, cần quy định chế định “ hành vi thái quá của người thực hành” cùng với chế định đồng phạm đã được quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự hiện hành.
Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã khẳng định, hành vi thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm và hậu quả do hành vi thái quá đó gây ra chỉ người thực hành phải chịu trách nhiệm hình sự còn những người đồng phạm khác không phải chịu về việc “thái quá” đó. Như vây, khi nghiên cứu tình trạng loại trừ trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác đối với hành vi thái quá của người thực hành chúng ta chỉ có thể nghiên cứu nội dung của sự “thái quá” mà người thực hành đã gây ra, từ đó xác định trách nhiệm hình sự của người thực hành về hành vi thái quá đó mà loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác.
Hành vi thái quá của người thực hành là việc người thực hành tự ý thực hiện hành vi tội phạm mà những người đồng phạm khác không mong muốn. Hay nói cách khác là hành vi tội phạm của người thực hành mà những người đồng phạm khác không có ý định thực hiện. Ví dụ: Trần Quang A, Nguyễn Văn C, Bùi Quốc T, Bùi Quốc L vì thua bạc nên Bùi Quốc T bàn bạc với đồng bọn về nhà mình doạ mẹ của T để buộc mẹ của T phải đưa chìa khoá tủ mở lấy tiền tiếp tục đi đánh bạc, cả bọn đồng ý. Vì T và L là anh em và là con của bà M, nên chúng giao cho A và C trực tiếp thực hiện. Trước khi đi cả bon thống nhất chỉ doạ bà M để bà đưa chìa khoá tủ chứ không được làm bất cứ điêù gì gây đau đớn cho bà. T và L còn nói, nếu má tao có sao chúng mày đừng có trách. Sau khi đã bàn bạc thống nhất, vào lúc nửa đêm A và C lẻn vào nhà bà M, lợi dụng lúc bà M đang ngủ, A dùng tay chẹn vào cổ bà M, còn C doạ : “ chìa khoá tủ để ở đâu không đưa đây chúng tao giết !”. Bị tấn công bất ngờ, bà M không kịp trở tay buộc phải đưa chùm chìa khoá cho C. Trong lúc C đang mở tủ để lục soát tìm tiền, thì A dùng một quả chanh nhét vào miệng bà M và lấy khăn bịt miệng bà M lại, nhưng vì bà M giãy giụa làm quả chanh trong miệng bật ra, đồng thời bà M kêu cứu. Sợ bị lộ, A vật bà M xuống ngồi lên bụng bà, rồi dùng tay bóp cổ bà cho đến khi bà M không còn giãy giụa nưã y mới bỏ tay ra, C thấy A hành động như vậy hỏi, sao mày làm như vậy ? thì A trả lời, bà ấy chỉ xỉu thôi không chết đâu mà sợ, cùng lúc này C đã lục tủ lấy được bọc tiền của bà M rồi cả hai bỏ chạy ra điểm hẹn với T và L. Thấy A và C đến T hỏi ngay má tao có sao không, cả A và C đều trả lời không việc gì hết. T bào L về nhà xem tình hình còn T, A và C tiếp tục đi đánh bạc. Khi L về nhà thấy má mình bất động đã đưa đi bệnh viện cấp cứu, nhưng bà M đã chết. Trong ví dụ này, ngay từ khi bàn bạc tội phạm, chúng thống nhất chỉ làm cho bà M sợ để bà đưa chìa khoá tủ, nhưng trong khi thực hiện tội phạm A đã có hành vi thái quá làm cho bà M bị chết, vì vậy chỉ có A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người, cong C, T, L chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản của công dân.
Thực tiễn xét xử cho thấy hành vi thái quá của người thực hành không chỉ đơn gián mà nó được biểu hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau như: lúc đầu chỉ bàn cướp nhưng khi thực hiện lại giết người; lúc đầu chỉ bàn đánh cho một trận nhưng khi thực hiện lại lấy tài sản của người bị đánh; lúc đầu bàn bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản nhưng khi thực hiện việc bắt cóc lại hiếp dâm; lúc đầu chỉ bàn trộm trâu nhưng khi thực hiện lại trộm cả lợn và gà v.v…Chính vì tội phạm xảy ra muôn hình muôn vẻ nên khoa học luật hình sự chia hành vi thái quá ra làm hai loại chính: Thái quá về chất lượng của hành vi và thái quá về số lượng của hành vi.
Thái quá về chất lượng của hành vi là trường hợp người thực hành trong vụ án có đồng phạm thực hiện hành vi thái quá đó không cùng tính chất với tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện, nếu hành vi thái quá cấu thành tội phạm thì tội phạm đó không cùng tính chất với tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện. Ví dụ: Trần Văn Tuấn bàn với Đặng Văn Hùng và Phạm Quốc Hưng chặn đường để cướp của, nhưng trước khi đi, Hùng bị kẹt nên chỉ có Tuấn và Hưng thực hiện. Khi phát hiện thấy người đi xe máy chạy qua Hưng và Tuấn ra chặn lại để cướp tài sản thì phát hiện người đi xe máy là một phụ nữ, nên cả hai tên nảy ý định hiếp dâm và chúng đã thực hiện hành vi hiếp dâm, đồng thời cướp đị của nạn nhân sợi dây chuyền. Hành động xong, Hưng và Tuấn về kể cho Hùng nghe đã cướp được dây chuyền vàng, hôm sau Hùng mang dây chuyền đi bán thì bị phát hiện và bị bắt giữ. Trong quá trình điều tra, Hùng mới biết ngoài hành vi cướp tài sản thì Hưng và Tuấn còn hiếp dâm người bị hại. Hành vi thái quá của Hưng và Tuấn là hành vi thái quá về chất lượng vì tội hiếp dâm không cùng tính chất với tội cướp tài sản của công dân. Việc xác định thái quá về chất lượng không mấy khó khăn và cũng chính vì thế mà xác định trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác không phải là người thực hành cũng dễ dàng hơn so với trường hợp thái quá về số lượng hành vi.
Thái quá về số lượng hành vi là trường hợp người thực hành trong vụ án có đồng phạm thực hiện hành vi thái quá mà hành vi đó cùng tính chất với hành vi tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện. Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử loại thái quá này rất khó xác định cho nên không ít trường hợp rõ ràng là người thực hành trong vụ án có đồng phạm có hành vi thái quá nhưng những người đồng phạm khác vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi thái quá đó. Do đó để phân biệt hành vi đã thái quá hay chưa cần phải nghiên cứu nó ở những mức độ khác nhau
Trường hợp thứ nhất:
Hành vi thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm đã cấu thành một tội phạm khác và tội phạm này cùng tính chất vơí tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện. Ví dụ: Do có thù tức với Đặng Văn Hoà nên Trần Tuấn Anh, Phạm Quốc Bảo và Nguyễn Hồng Cang bàn bạc tìm Hoà để đánh cho Hoà một trận. Khi gặp Hoà, cả ba tên lao vào dùng chân tay đấm đá cho tới khi Hoà ngã gục. Tháy vậy, Bảo và Cang nói thôi thế là dủ đừng đánh nữa không thì nó chết mất, ròi Bảo và Cang bỏ đi. Nhưng Anh vẫn ở lại tiếp tục dùng gót chân thúc mạnh vào hai mạng sườn và dận lên ngực Hoà cho tới khi Hoà bất tỉnh mới thôi. Hậu quả là Hoà bị chết. Kết quả giám định kết luận Hoà bị chết là do bị vỡ lá lách, chảy máu trong, phổi xung huyết mất máu cấp. Với hành vi tội phạm như trên Toà án cấp sơ thẩm và pháuc thẩm đều kết án cả ba tên Anh, Bảo và Cang về tội giết người. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã quyết định chỉ kết án Trần Tuấn Anh về tội giết người còn Phạm Quốc Bảo và Nguyễn Hồng Cang không bị kết án về tội giết người mà chỉ bị kết án về tội có ý gây thương tích vì xác định hành vi của Trần Tuấn Anh là hành vi thái quá nên Bảo và Cang không phải chịu về hậu quả do hành vi thái quá của Tuấn Anh gây ra. Trong ví dụ này, hành vi thái quá của người thực hành đã cấu thành tội phạm khác – tội giết người – nhưng hành vi này cùng tính chất với hành vi của những người đồng phạm khác (cùng đấm đá, cùng xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ của con người).
Trường hợp thứ hai:
Hành vi thái quá của người thực hành chưa cấu thành tội phạm khác mà nó vẫn là tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện. Ví dụ: Lê Khắc Thâu là thủ kho, Trần Thị Mai là kế toán và Vũ Văn Ban là bảo vệ Công ty kinh doanh tổng hợp tỉnh bàn với nhau về việc vào lấy trộm 100 Kg mì chính ( bột ngọt ) ở kho do Thâu quán lý bán lấy tiền chia nhau. Thâu và Ban được phân công trực tiếp vào kho lấy mì chính còn Mai có nhiệm vụ sửa chữa sổ sách để hợp thức hoá việc thiếu 100 Kg mì chính. Nhưng trước khi vào kho lấy mì chính Thâu bàn với Ban lấy thêm 50 Kg để chia nhau mà không cho Mai biết. Trong ví dụ này, rõ ràng Ban và Thâu có hành vi thái quá, nhưng hành vi thái quá này không cấu thành một tội phạm khác riêng biệt, cả Mai, Thâu và ban đều tội phạm tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa, nhưng tính chất và mức đội tội phạm của Ban và Thâu có khác Mai. Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì Thâu và Ban phải chịu hình phạt nặng hơn Mai.
Sự phân biệt hai loại hành vi thái quá như trên chỉ có ý nghĩa trong công tác nghiên cứu khoa học, còn thực tiễn xét xử dù là thái quá về chất lượng hay về số lượng của hành vi thì những người đồng phạm khác đều không phải chụi trách nhiệm hình sự về hành vi thái quá của người thực hành.
Đối với các vụ án phạm tội có tổ chức, khi xác định những người đồng phạm khác có phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của người thực hành hay không cũng có nhiều phức tạp. Bởi vì trong quá trình thực hiện tội phạm, người thực hành có nhiều hành vi nhằm đạt được mục đích mà những người đồng phạm khác mong muốn, trong đó có hành vi được những người đồng phạm khác biết trước và đồng tình, nhưng cũng có những hành vi không được những người đồng phạm khác biết trước, không mong muốn hậu quả của những hành vi đó xảy ra, nhưng có thái độ bỏ mặc, muốn ra sao thì ra. Vậy vấn đề trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác được xác định như thế nào khi người thực hành có những hành vi gây ra hậu quả mà mình không biết, không mong muốn ? Ví dụ: A,B và C chỉ bàn bạc với nhau về việc đến uy hiếp chủ nhà để cướp tài sản. Khi đi chúng có mang theo dao găm, dây trói, giẻ và chanh để bịt miệng. Tới nơi, A và B trói chủ nhà, nhét chanh vào miệng chủ nhà ,lấy giẻ buộc lại và giao cho C canh giữ. Thấy giẻ bịt miệng chủ cnhà tuột ra, C sợ chủ nhà kêu cứu, nên đã bóp cổ làm chủ nhà bị chết ngạt. Về trường hợp này, có ý kiến cho rằng hành vi bóc cổ chủ nhà của C là hành vi thái quá nên C phạm giết người và cướp tải sản của công dân còn A và B không chịu trách nhiệm về hành vi và hậu quả do hành vi thái quá của C nên chỉ tội phạm cướp tài sản của công dân. Nhưng ý kiến thứ hai lại cho rằng, tuy A,B và C không bàn bạc với nhau từ trước về việc giết người, nhưng A và B bỏ mặc cho C hành động, không quan tâm đến hậu quả do hành vi của C gây ra miễn là cướp được tài sản; việc C bóp cổ chủ nhà cũng là nhằm cho đòng bọn thực hiện trót lọt việc lấy tài sản mà cả A và B đều mong muốn. Do đó cái chết của chủ nhà do C trực tiếp gây ra nhưng phải buộc cả A và B cùng phải chịu trách nhiệm hình sự.
Về hành vi thái quá của người thực hành về lý luận cũng như pháp luật của các nước trên thế giới còn có nhiều cách đánh giá khác nhau, nhưng qua thực tiễn xét xử ở nước ta cũng như một số nước thừa nhận: Nếu những người đồng phạm để cho người thực hành hoàn toàn tự do hành động nhằm đạt được mục đích của tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện, thì hành mọi hành vi của người thực hành không được coi là hành vi thái quá và những người đồng phạm khác phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi hành vi của người thực hành gây ra. Tuy nhiên, khi xem xét hành vi của người thực hành được tự do hành đồng để đạt được mục đích mà các người đồng phạm khác đặt ra phải chú ý một điểm là: Hành vi đó phải là dấu hiệu của cấu thành tội phạm mà tội phạm đó đã được những người đồng phạm khác bàn bạc thống nhất như trường hợp ví du trên hành vi bóp cổ chủ nhà của C cũng là hành vi vũ lực – dấu hiệu của tội cướp tài sản của công dân. Thì những người đồng phạm khác mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Nếu hành vi dó lại là dấu hiệu cấu thành một tội độc lập khác thì hành vi đó lại được coi là thái quá và những người đồng phạm khác không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp ví dụ trên, giả thiết C không bóp cổ chủ nhà chết mà lại hiếp dâm chủ nhà thì hành vi diếp dâm của C là hành vi thái quá và A, B không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm mà C thực hiện.
Việc để cho người thực hành tự do hành động, tức là người thực hành không bị ràng buộc bởi bất kỳ sự ràng buộc nào của những người đồng phạm khác. Nếu những người đồng phạm khác lại có hành vi ngăn cản hay hành động tích cực để ngăn chặn hậu quả, nhưng người thực hành vẫn cố tình thực hiện thì hành vi của người thực hành dù có là dấu hiệu câú thành tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện thì những người này cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Trương Quang Tuấn, Vũ Minh Hùng và Hoàng Công Văn bàn bạc đến nhà cậu ruột của Văn để cướp. Văn không trực tiếp thực hiện mà giao cho Tuấn và Hùng chỉ được trói chủ nhà để uy hiếp lấy tài sản chứ không được gây án mạng. Vì sợ bọn Hùng làm ẩu. Nên trước khi đi, Văn đã kiểm tra và giữ lại hai dao găm mà bọn Hùng định mang theo. Trên đường đến nhà cậu của Văn để cướp, Hùng và Tuấn tự ý về nhà Hùng lấy một khẩu súng ngắn mà Hùng đã chuẩn bị từ trước, vì chúng cho rằng không có vũ khí thì không thể làm gì được. Tới nơi, Hùng và Tuấn dùng súng uy hiếp bắt trói chủ nhà, rồi lục soát tài sản. Trong khi bọn chúng đang lục soát thì chủ nhà tự cởi được trói, kêu cứu, Hùng đã dùng súng bắn chết chủ nhà. Trong trường hợp này hành vi của Hùng cũng là hành vi nhằm thực hiện tội cướp mà cả văn đã bàn bạc từ trước, nhưng Văn đã có những hành động tích cực nhằm hạn chế ngăn chặn hậu quả nên Văn không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết do Hùng và Tuấn gây nên.
Thực tiễn xét xử cũng có những trường hợp nếu chỉ căn cứ vào hành động hoặc lời nói của những người đồng phạm khác ( chủ mưu, tổ chức, xúi dục, giúp sức) thì thấy họ có ý thức bỏ mặc cho hậu quả do người thực hành thực hiện tội phạm nên đã buộc những người này phải chịu trách nhiệm về hậu quả mà người thực hành gây ra, nhưng căn cứ vào nội dung hành đồnh và lời nói của họ thì họ không có ý thức bỏ mặc cho hậu quả do người thực hành gây ra vì như vậy họ không thực hiện được mục đích của mình. Ví dụ: Nguyễn Tiến Nê là đội phó đội điều tra Công an huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ và Tống Viết Quang là điều tra viên được phân công điều tra vụ án mà Hà Văn Toàn là người tiêu thụ tài sản do ngươì khác tội phạm mà có, trong qúa trình điều tra, mặc dù có căn cứ đề xác định rằng Toàn đã tiêu thụ 17 cái mày bơm bị trộm cắp chứ không phải chỉ có 4 cái như Toàn thừa nhận, nên phải ra lệnh bắt giam Toàn để tiếp tục làm rõ hành vi tội phạm của Toàn. Toàn được giam chung với một số phạm nhân trong đó có Bùi Xuân Phương là tên đã có nhiều tiền án tiền sự được các phạm nhân khác mệnh danh là đầu gấu trong buồng giam. Quang đã nhiều lần lấy lời khai của Toàn nhưng Toàn một mực không nhận, Nê và Quang nói với Phương phải đánh cho Toàn một trận thì nó mới khai đúng sự thật. Để lấy lòng cán bộ điều tra và cũng vì sợ không đánh Toàn thì sẽ không được yên nên Phương đã tổ chức cho các phạm nhân cùng buồng đánh đập Toàn rát dã man làm cho Toàn bị ngất xỉu phải đưa đi cấp cứu nhưng bị chết. Khi xem xét trách nhiệm của Nguyễn Tiến Nê và Tống Viết Quang có ý kiến cho rằng, mặc dù Quang và Nê không có ý định tước đoạt tính mạng của Toàn từ trước, nhưng đã có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra không có biện pháp ngăn chặn và việc Phương cùng các phạm nhân khác đánh chết Toàn là do câu nói của Quang và Nê “ đánh cho nó một trận để nó khai ra sự thật”. Do đó, Nê và Quang phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người với vai trò xúi dục. Tuy nhiên, nghiên cứu kỹ nội dung lời nói của Nê và Quang chúng ta thấy, nếu Nê và Quang để mặc cho bọn Phương đánh chết anh Toàn thì về thực tế không đạt được mục đích là làm cho Toàn khai ra sự thật, còn về pháp lý nói đánh cho một trận để nó khai ra chứ không phải đánh cho một trận cho nó biết thế nào là tù tội, hoặc mày cứ đánh cho nó một trận muốn ra sao thì ra. Vì thế trong trường hợp này việc bọn Phương đánh quá tay làm anh Toàn bị chết là ngoài mục đích của Nê và Quang, và hành vi của Phương và đồng bọn là hành vi thái quá của người thực hành nên những người đồng phạm khác không phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên hành vi của Nê và Quang nói đánh cho nó một trận cũng tức là mong muốn cho Toàn bị thương tich hoạc bị tổn hại đén sức khoẻ, nên hành vi của Nê và Quang phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 109 Bộ luật hình sự vì có tình tiết gây hậu quả chết người.
Tóm lại, vấn đề loại trứ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác (không phải là người thực hành) trong vụ án có đồng phạm không chỉ có liên quan đến hành vi thái quá của người thực hành mà còn liên quan đến nhiều chế định khác như: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc tội phạm, vấn đề lỗi, các điều kiện của đồng phạm và phạm tội có tổ chức.v.v… nhưng hành vi thái quá của người thực hành lại liên quan trực tiếp đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự đối vơí người đồng phạm khác, nên có thể nói hành vi thái quá của người thực hành chính là điều kiện (căn cứ) để loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác.
Người xúi dục là người kính động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm chỉ được coi là người đồng phạm trong vụ án có tổ chức, khi hành vi xúi dục có liên quan trực tiếp đến toàn bộ hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm trước khi bị xúi dục chưa có ý định tội phạm, vị có người khác xúi dục nên họ mới nảy sinh ý định tội phạm. Nếu việc xúi dục không liên quan trực tiếp đến hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm đã có sẵn ý định tội phạm, thì không phải là người xúi dục trong vụ án có đồng phạm (phạm tội có tổ chức). Ví dụ: Lê Tiến D đi thăm đồng thấy hai tốp thanh niên đang đuổi đánh nhau, D liền hô: đánh bỏ mẹ chúng nó đi ! nhưng không nói ai đánh ai và cũng chỉ hô như vậy rồi thôi. Sau đó hai tốp thành niên vẫn đuổi đánh nhau dẫn đến một thanh niên bị đâm chết. Hành vi của D tuy có vẻ xúi dục người khác, nhưng khi D có hành vi xúi dục thì ý định tội phạm của hai tốp thanh niên đã có sẵn từ trước nên hành vi xúi dục của D không có ý nghĩa gì đến việc phạm tội của hai tốp thanh niên này, dù D có hô hay không hô câu “đánh bỏ mẹ nó đi” thì cũng không làm thay đổi ý định tội phạm của só thanh niên này, nên không thể coi D là người xúi dục được.
Người xúi dục là người phạm tội giấu mặt, dân gian thường gọi là kẻ “ném đã giấu tay”. Tuy nhiên, nếu xúi dục trẻ em dưới 14 tuổi, người không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm, thì hành vi xúi dục được coi là hành vi thực hành thông qua hành vi của người không chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này, người không phải chịu trách nhiệm hình sự trở thành công cụ để người xúi dục thực hiện tội phạm. Nếu xúi dục trẻ em từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tội phạm thì người xíu dục còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “xúi dục người chưa thành niên tội phạm” (điểm n khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự ).
Trong trường hợp người xúi dục lại là người tố chức và cùng thực hiện tội phạm, thì họ trở thành người tổ chức và nếu xúi người chưa thành niên tội phạm thì họ còn phải chịu tình tiết tăng nặng” xúi dục người chưa thành niên tội phạm”.
Hành vi xúi dục phải cụ thể, tức là người xúi dục phải nhằm vào tội phạm cụ thể và người phạm tội cụ thể nếu chỉ có lời nói có tính chất thông báo hoặc gợi ý chung chung thì không phải là người xúi dục và không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tội phạm của người thực hiện tội phạm. Ví dụ: Nguyễn Quang T cùng ngồi uống nước với một số thanh niên. Trong lúc uống nước, T nói: ” Tao vừa đi qua Cảng thấy hàng về nhiều lắm, đêm nay đứa nào bạo gan ra đó nhất định kiếm được”. Trong số thanh niên ngồi uống nước có Trần Quốc P và Đặng Văn V là những tên đã có nhiều tiền án, tiền sự về tội trộm cắp, nghe T nói vậy, liền bàn nhau đến đêm ra Cảng trộm cắp hàng. Khi bị bắt, P và V khai vì do T nói ở ngoài Cảng hàng về nhiều nên chúng tôi mới bàn với nhau ra Cảng trộm cắp. Đúng là trong trường hợp này, T có nói một câu như có vẻ xúi dục, nhưng câu nói của T không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc P và V trộm cắp. Mặt khác, T cũng không phải là người xúi dục P và V trộm cắp, cũng không được P và V hứa chia tiền hoặc tài sản nếu tộm cắp được.
Người giúp sức là người tạo điều những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Trong một vụ án có đồng phạm, vai trò của người giúp sức cũng rất quan trọng, nếu không có người giúp sức thì người thực hiện tội phạm sẽ gặp khó khăn. Ví dụ: Phạm Thị H hứa với Trần Công T sẽ tiêu thụ toàn bộ số tài sản nếu T trộm cắp được. vì có sự hứa hện của H nên đã thúc đẩy T quyết tâm tội phạm vì đã có nơi tiêu thụ tài sản trộm cắp được.
Người giúp sức có thể giúp bằng lời khuyên, lời chỉ dẫn; cung cấp phương tiện tội phạm hoặc khắc phục những trở ngại cho việc thực hiện tội phạm; hứa che giấu người phạm tội, phương tiện, xoá dấu vết, hứa tiêu thụ tài sản do tội phạm mà có…
Hành vi tạo những điều kiện về tinh thần thường được biểu hiện như: Hứa hẹn sẽ che giấu hoặc hứa ban phát cho người phạm tội một lợi ích tinh thần nào đó như: hứa gả con, hứa đề bạt, thăng cấp, tăng lương cho người phạm tội, bày vẽ cho người phạm tội cách thức thực hiện tội phạm như: nói cho người phạm tội biết chủ nhà thường vắng nhà vào giờ nào để đến trộm cắp, nói cho người phạm tội biết người bị hai hay đi về đường nào để người phạm tội phục đánh…
Hành vi tạo điều kiện vật chất cho việc thực hiện tội phạm là hành vi cung cấp phương tiện tội phạm như: cung cấp dao, súng, côn gỗ, xe máy, xe ô tô… đẻ người phạm tội thực hiện tội phạm.
Dù tạo điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm thì hành vi đó cũng chỉ tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực hiện tội phạm chứ người giúp sức không trực tiếp thực hiện tội phạm.
Hành vi tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm cuả người giúp sức cũng có thể là hành vi của người tổ chức, nhưng khác với ngừơi tổ chức, người giúp sức không phải là người chủ mưu. cầm đầu, chỉ huy mà chỉ có vai trò thức yếu trong vu án đồng phạm. Nếu các tình tiết khác như nhau thì người giúp sức bao giờ cũng được áp dụng hình phạt nhẹ hơn những người đòng phạm khác.
Phạm tội có tổ chức khác với tổ chức phạm tội. Bộ luật hình sự nước ta không có quy định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một tổ chức (pháp nhân), vì vậy, không có khái niệm tổ chức phạm tội trong luật hình sự Việt Nam, mặc dù trong xã hội vẫn có thể có một tổ chức phạm tội dưới hình thức “Băng, Đảng” do một số người thành lập hoặc có sự cấu kết để hoạt động phạm tội… Tuy nhiên, khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của các tổ chức này thì chỉ truy cứu từng cá nhân trong tổ chức đó. Ví dụ: Trong vụ án Năm Cam là một tổ chức hoạt động theo kiểu “xã hội đen” do Trương Văn Cam (Năm Cam) cầm đầu thực hiện nhiều hành vi phạm tội trong một thời gian dài trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác, nhưng cơ quan tiến hành tố tụng chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự từng cá nhân trong tổ chức “Năm Cam” chứ không truy cứu “tổ chức Năm Cam”.
Hiện nay, cũng có ý kiến cho rằng, Bộ luật hình sự nước ta cần quy định việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với “nhóm tội phạm có tổ chức” để trường trị một số đối tượng thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm có tổ chức để thực hiện một số tội đặc biệt nguy hiểm như: khủng bố, giết người rửa tiền, buôn bán người, sản xuất, mua bán trái phép chất ma tuý… Tuy nhiên, theo tôi, cần cân nhắc kỹ vấn đề này, vì Bộ luật hình sự đã quy định các hành vi phạm tội khủng bố, rửa tiền, buôn bán người, sản xuất và mua bán trái phép chất ma tuý và một số tội phạm khác. Đối với các tội phạm này, nếu là phạm tội có tổ chức thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt nặng hơn. Nếu quy định thêm một hành vi phạm tội mới mà hành vi phạm tội đó đã được quy định tại các điều luật thì áp dụng thế nào ? Khái niệm tội phạm theo Điều 8 Bộ luật hình sự đã nêu rất rõ, còn phạm tội có tổ chức Điều 20 Bộ luật hình sự cũng nêu cụ thể đã bao hàm cả nhóm phạm tội có tổ chức rồi. Giả thiết, có một nhóm được thành lập ra để thực hiện một hoặc một số tội phạm nào đó nhưng vì lý do khách quan mà chưa thực hiện được thì đã thuộc trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt và tuỳ trường hợp mà bị xử lý theo quy định của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, Bộ luật hình sự còn có chế định “tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” (Điều 19). Vậy “nhóm tội phạm có tổ chức” chưa thực hiện hành vi phạm tội mà tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội” thì giải quyết thế nào, đó là chưa kể đến việc xác định vai trò của từng người trong “nhóm tội phạm có tổ chức đó”
Phạm tội có tổ chức khác với người tổ chức trong vụ án có đồng phạm, vì người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu chỉ huy việc thực hiện tội phạm, nói lên vai trò, nhiệm vụ của một người trong một vụ án có đồng phạm, còn phạm tội có tổ chức lại nói lên quy mô của tính chất, mức độ nguy hiểm mà tội phạm đó đã xảy ra. Tất nhiên phạm tội có tổ chức bao giờ cũng có người tổ chức (người cầm đầu), nhưng không phải chỉ có người tổ chức mới bị áp dụng tình tiết tăng nặng này mà tất cả những người tham gia đều bị coi là phạm tội có tổ chức. Ví dụ: Trong vụ án Tân Trường Sanh, có một đơn vị là Phòng chống buôn lậu thuộc Cục hải quan thành phố Hồ Chí Minh do Phùng Long Thất là Trưởng phòng đã tổ chức nhận hối lộ. Việc nhận hối lộ ở đây không phải do từng cá nhân thực hiện mà là do Phòng thực hiện, người đưa hối lộ cũng không đưa cho một cá nhân nào mà đưa chung cho cả Phòng, Phòng cử người nhận tiền hàng ngày, nộp vào “quỹ” của phòng và chia cho tất cả cán bộ, nhân viên trong Phòng theo phương thức: người có chức vụ càng cao thì được chia nhiều hơn người có chức vụ thấp; người có thời gian công tác ở Phòng lâu hơn được chia nhiều hơn; có người không tham gia vào quá trình nhận và chia tiền, mà chỉ biết Phòng có chủ trương nhận tiền của chủ hàng và được chia tiền, nhưng họ đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ với tình tiết “có tổ chức”.
Phạm tội có tổ chức cũng khác với hành vi tổ chức trong một số tội phạm như: tổ chức tảo hôn (Điều 148) tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý (Điều 197), tổ chức đánh bạc (Điều 249), tổ chức người khác trốn đi nước người hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Điều 275). Đối với các hành vi phạm tội này có thể có trường hợp phạm tội có tổ chức, nhưng không phải tất cả các hành vi phạm tội trên đều bị coi là phạm tội có tổ chức. Ví dụ: Đặng Quang H rủ rê, lôi kéo một số con nghiện đến nhà mình để sử dụng trái phép chất ma tuý thì bị bắt quả tang. Hành vi của Đặng Quang H chỉ là hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, chứ không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức vì chỉ có một mình H thực hiện, không có sự cấu kết chặt chẽ, không có sự phân công vai trò của từng người đồng phạm, và trong trường hợp này cũng không phải là trường hợp phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý có đồng phạm. Tuy nhiên, nếu Đặng Quang H và một số người khác cùng thực hiện hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, có sự cấu kết chặt chễ, có sự phân công vai trò của từng người dưới sự chỉ huy của Đặng Quang H như: H phân công người thì chuẩn bị địa điểm, người chuẩn bị phương tiện, người chuẩn bị ma tuý, người canh gác…, để đưa chất ma tuý vào cơ thể các con nghiện thì hành vi phạm tội của H và đồng bọn là trường hợp “phạm tội có tổ chức”. Khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo Toà án vẫn phải áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội có tổ chức” đối với các bị cáo, mặc dù các bị cáo phạm tội “tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”
Phạm tội có tổ chức là nói đến quy mô, tính chất của tội phạm, còn khái niệm “tổ chức” nhà làm luật quy định trong các tội phạm cụ thể nêu ở trên là hành vi phạm tội. Phạm tội có tổ chức, nhất thiết phải có từ hai người trở lên, là một hình thức đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ, có sự phân công trách nhiệm… còn tổ chức đánh bạc, tổ chức tảo hôn, tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý… có thể chỉ có một người cũng có thể thực hiện được hành vi tổ chức. Do đó, đối với hành vi tổ chức trong các tội phạm này không coi là tình tiết tăng nặng và không thuộc phạm vi điều chỉnh tại khoản 2 Điều 48 Bộ luật hình sự (những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng). Vì vậy, tình tiết tăng nặng “phạm tội có tổ chức” vẫn có thể áp dụng đối với các tội như: tội tổ chức tảo hôn (Điều 148); tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý (Điều 197); tội tổ chức đánh bạc (Điều 249); tội tổ chức người khác trốn đi nước người hoặc ở lại nước ngoài trái phép (Điều 275), nếu có đủ dấu hiệu về “phạm tội có tổ chức”
Phạm tội có tổ chức là yếu tố định khung hình phạt đối với các tội như: tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nhằm chống chính quyền nhân dân. (khoản 2 Điều 91; (tội giết người (điểm o khoản 1 Điều 93); tội hiếp hâm (điểm a khoản 2 Điều 111; tội hiếp dâm trẻ em (điểm a khoản 3 Điều 112); tội cố ý lây truyền HIV cho người khác (điểm a khoản 2 Điều 118); tội mua bán người (điểm b khoản 2 Điều 119); tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (điểm a khoản 2 Điều 120); tội vu khống (điểm a khoản 2 Điều 122); tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật ((điểm a khoản 2 Điều 123); tội xâm phạm chỗ ở của công dân (điểm a khoản 2 Điều 124); tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác (điểm a khoản 2 Điều 125); tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân (điểm a khoản 2 Điều 126); tội làm sai lệch kết quả bầu cử (điểm a khoản 2 Điều 127); tội xâm phạm quyền tác giả (điểm a khoản 2 Điều 131); tội cướp tài sản (điểm a khoản 2 Điều 133); tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (điểm a khoản 2 Điều 134); tội cưỡng đoạt tài sản (điểm a khoản 2 Điều 135); tội cướp giật ta (điểm a khoản 2 Điều 136); tội trộm cắp tài sản (điểm a khoản 2 Điều 138); tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (điểm a khoản 2 Điều 139); tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (điểm a khoản 2 Điều 140); tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (điểm a khoản 2 Điều 143); tội buôn lậu (điểm a khoản 2 Điều 153); tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm (điểm a khoản 2 Điều 155); tội sản xuất, buôn bán hàng giả (điểm a khoản 2 Điều 156); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (điểm a khoản 2 Điều 157); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật; giống cây trồng vật nuôi (điểm a khoản 2 Điều 158); tội đầu cơ (điểm a khoản 2 Điều 160); tội làm tem giả, vé giả; tội buôn bán tem giả, vé giả (điểm a khoản 2 Điều 164); tội in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước (điểm a khoản 2 Điều 164a); tội vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước (điểm a khoản 2 Điều 164c); tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (điểm b khoản 2 Điều 165); tội cố ý làm trái quy định về phân phối tiền, hàng cứu trợ (điểm a khoản 2 Điều 169); tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (điểm a khoản 2 Điều 170); tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (điểm a khoản 2 Điều 170a); tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (điểm a khoản 2 Điều 171); tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (điểm a khoản 2 Điều 173); tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (điểm a khoản 2 Điều 174); tội vi phạm các quy định về quản lý rừng (điểm a khoản 2 Điều 176); tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán (điểm a khoản 2 Điều 181a); tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (diểm a khoản 2 Điều 181b); tội thao túng giá chứng khoán (điểm s khoản 2 Điều 181c); tội gây ô nhiễm môi trường (điểm a khoản 2 Điều 182); tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại (khoản 2 Điều 182a); tội huỷ hoại rừng (điểm a khoản 2 Điều 189); tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý hiếm được ưu tiên bảo vệ (điểm a khoản 2 Điều 190); tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên (điểm a khoản 3 Điều 191); tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại (điểm a khoản 2 Điều 191a); tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý (điểm a khoản 2 Điều 192); tội sản xuất trái phép chất ma tuý (điểm a khoản 2 Điều 193); tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý (điểm a khoản 2 Điều 194); tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý (điểm a khoản 2 Điều 195); tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma tuý (điểm a khoản 2 Điều 196); tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý (điểm a khoản 2 Điều 200); tội vi phạm các quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý (điểm a khoản 2 Điều 201); tội chiếm đoạt tàu bay (điểm a khoản 2 Điều 221); tội phát tán vi rút, chương trình tin học có tính năng gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet, thiết bị số (điểm a khoản 2 Điều 224); tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet, thiết bị số (điểm a khoản 2 Điều 225); tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet (điểm a khoản 2 Điều 226); tội truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số của người khác (điểm a khoản 2 Điều 226a); tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (điểm a khoản 2 Điều 226b); tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán, trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (điểm a khoản 2 Điều 230); tội phá huỷ công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (điểm a khoản 2 Điều 231); tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán, trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ (điểm a khoản 2 Điều 231);tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán, trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự (điểm a khoản 2 Điều 230); tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán, trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ (điểm a khoản 2 Điều 233); tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán, trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ (điểm a khoản 2 Điều 236); tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán, trái phép hoặc chiếm đoạt chất cháy, chất độc (điểm a khoản 2 Điều 238); tội gây rối trật tự công cộng (điểm a khoản 2 Điều 245); tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (điểm a khoản 2 Điều 250); tội rửa tiền(điểm a khoản 2 Điều 251); tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm tội (điểm a khoản 2 Điều 252); tội truyền bá văn hoá phẩm đồi truỵ (điểm a khoản 2 Điều 253); tội chứa mại dâm (điểm a khoản 2 Điều 254); tội môi giới mại dâm (điểm b khoản 2 Điều 255); tội chống người thi hành công vụ (điểm a khoản 2 Điều 257); tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức (điểm a khoản 2 Điều 266); tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức (điểm a khoản 2 Điều 267); tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ con dấu, tài liệu của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội (điểm a khoản 2 Điều 268); tội tham ô (điểm a khoản 2 Điều 278); tội nhận hối lộ (điểm a khoản 2 Điều 279); tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (điểm a khoản 2 Điều 280); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (điểm a khoản 2 Điều 281); tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (điểm a khoản 2 Điều 282); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (điểm a khoản 2 Điều 283); tội giả mạo trong công tác (điểm a khoản 2 Điều 284); tội đưa hối lộ (điểm a khoản 2 Điều 289); tội làm môi giới hối lộ (điểm a khoản 2 Điều 290); tội làm sai lệch hồ sơ vụ án (điểm a khoản 2 Điều 300); tội khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật (điểm a khoản 2 Điều 307); tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử (điểm a khoản 2 Điều 311); tội đánh tháo người bị giam, giữ, người đang bị dẫn giải, người đang bị xét xử (điểm a khoản 2 Điều 312).
Như vậy, đối với các tội phạm trên nếu thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt có tình tiết “phạm tội có tổ chức) và khi quyết định hình phạt Toà án không được áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội có tổ chức” đối với họ nữa.
Ngoài việc nhà làm luật quy định tình tiết “phạm tội có tổ chức” là yếu tố định khung hình phạt đối với các tội phạm đã nêu ở trên, thì còn quy định tình tiết này là yếu tố định tội đối với các tội như: tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79); tội bạo loạn (Điều 82); tội hoạt động phỉ (Điều 83). Các trường hợp phạm tội này đèu quy định tình tiết “phạm tội có tổ chức” là dấu hiệu định tội. Do đó, khi quyết định hình phạt đối với bị cáo phạm các tội này, Toà án không được áp dụng tình tiết “phạm tội có tổ chức” là tình tiết tăng nặng đối với người phạm tội nữa.
Thực tiễn áp dụng tình tiết tăng nặng này cho thấy, do chưa thấy hết tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi do người tổ chức thực hiện, nên một số Toà án thường quyết định mức hình phạt đối với người thực hành cao hơn người tổ chức vì cho rằng, người tổ chức không trực tiếp thực hiện tội phạm, không trực tiếp gây ra thiệt hại. Ví dụ: Trần Văn K, Đinh Văn H, Vũ Xuân T và Phạm Thanh B do Trần Văn K cầm đầu đã bàn bạc, chuẩn bị dao găm, giây thừng, quả chanh, giẻ bịt miệng đén nhà chị Bùi Thị Ngọc Dung để cướp tài sản. Trước khi đi, K phân công H và T cầm dao găm, giây thừng, quả chanh, giẻ bịt miệng vào nhà khống chế chị D, còn B ở ngoài canh gác. Sau khi cướp được tài sản, K sẽ đón cả bọn tại quán bia. Thực hiện kế hoạch trên, Đinh Văn H, Vũ Xuân T đọt nhập vào nhà chị D, H dùng dao găm khống chế chị D, còn T lục soát tài sản lấy đi 2.000 USD, 2 lượng vàng, 60 triệu đồng tiền Việt Nam và một số nữ trang khác, trong khi lục soát để lấy tài sản, lợi dụng lúc H không chú ý, chị D đã lấy được chiếc kéo để ở mặt bàn đâm H 1 nhát rồi bỏ chạy kêu “cướp ! cướp !” thấy H bị đâm, T lấy dao của H đuổi theo chị D đâm chị Dung nhiều nhát vào vai, vào sườn làm chị D gục ngã và bị chết trên đường đi cấp cứu. Khi xét xử vụ án này, cả Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đều kết án Vũ Xuân T tử hình về tội giết người và 8 năm tù về tội cướp tài sản, vì cho rằng T là tên thủ ác, trực tiếp đâm chết chị D còn Trần Văn K tuy với vai trò cầm đầu nhưng không trực tiếp gây ra cái chết cho chị D nên Toà án chỉ phạt Trần Văn K 10 năm tù về tội giết người và 5 năm tù về tội cướp, tổng hợp hình phạt buộc K phải chấp hành hình phạt chung là 15 năm tù. Việc quyết định hình phạt như trên của Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm rõ ràng là không đúng với vai trò của K trong vụ án, là tên cầm đầu, chỉ huy.
Khi quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm tội có tổ chức, cần chú ý:
– Dù với vai trò nào (người tổ chức, người thực hành, người xúi dục hay người giúp sức) thì tất cả những người trong vụ án đều bị áp dụng tình tiết tăng nặng là “phạm tội có tổ chức”. Tuy nhiên, mức độ tăng nặng nhiều hay ít đối với từng người còn tuỳ thuộc vào vai trò của họ trong vụ án như đã phân tích ở trên.
– Đối với vụ án có nhiều người tham gia và bị kết án về nhiều tội khác nhau thì cần phân biệt, tội phạm nào là trường hợp phạm tội có tổ chức, tội phạm nào chỉ là đồng phạm thông thường không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức; bị cáo nào phạm tội thuộc trường hợp “phạm tội có tổ chức” thì mới bị áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội có tổ chức”.
– Đối với vụ án thuộc trường hợp “phạm tội có tổ chức”, nhưng trong đó có người đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội và được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm, nhưng hành vi thực tế đã thực hiện của người này có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó không phải chịu trách nhiệm về tình tiết tăng nặng “phạm tội có tổ chức”, vì tội phạm mà họ định thực hiện tuy có tổ chức nhưng họ đã tự ý chấm dứt, còn tội phạm mà họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự là một tội phạm độc lập, không liên quan đến việc “phạm tội có tổ chức”.
Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào vai trò của từng người tham gia vào tội phạm và quy mô của vụ án. Người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm (người tổ chức) mức độ tăng nặng nhiều hơn người giúp sức trong vụ án. Vì vậy, khi quyết định hình phạt, mức hình phạt của người tổ chức nhất thiết không thể thấp hơn người thực hành, người xúi dục hoặc người giúp sức nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau.
Trân trọng./.
BỘ PHẬN TRANH TỤNG.
——————————————————————–
THAM KHẢO DỊCH VỤ PHÁP LUẬT LIÊN QUAN: