>> Luật sư tư vấn pháp luật Hình sự, gọi: 1900.0191

 

Trả lời:

1. Hình phạt đối với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

Điều 360, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

Điều 360. Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

1. Người nào có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 179, 308 và 376 (*) của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm:

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

a) Làm chết 02 người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

c) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm:

a) Làm chết 03 người trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”.

Giải thích (*): Khoản 1 điều 360, Bộ Luật hình sự năm 2015 loại trừ 03 tội danh sau:

– Điều 179. Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và

– Điều 308. Tội thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây hậu quả nghiêm trọng

– Điều 376. Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn.

Như vậy, có thể hiểu nếu thiếu trách nhiệm gây hậu thiệt hại đến tài sản nhà nước thì truy cứu theo điều 179, còn nếu đó không thuộc tài sản nhà nước thì sẽ truy cứu theo điều 360 của Bộ luật hình sự này.

 

Theo quy định của khoản 1 Điều 360 BLHS năm 2015:

Người nào có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao thuộc một trong các trường hợp: Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121% hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, mà không thuộc trường hợp quy định tại các Điều 179 (Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp), Điều 308 (Tội thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây hậu quả nghiêm trọng) và Điều 376 (Tội thiếu trách nhiệm để người bị bắt, người bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù trốn) thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm:

Điều 360 BLHS năm 2015 sau khi tạm lùi hiệu lực thi hành đã cấu tạo lại Điều 360 thành 4 khoản, trong đó khoản 1, khoản 2, khoản 3 là quy định các trường hợp phạm tội cụ thể còn khoản 4 là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội.

Liên quan đến hoạt động tư pháp, nếu trừ ba tội quy định tại các điều 179, 308 và 376 ra thì hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng chỉ có thể là hành vi của Điều tra viên (ĐTV), Kiểm sát viên (KSV), Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vì đã thiếu trách nhiệm mà gây hậu quả nghiêm trọng.

 

2. Hành vi “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” là như thế nào?

Thực tiễn cho thấy, hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong hoạt động tư pháp của điều tra viên (ĐTV), Kiểm sát viên (KSV), Thẩm phán không phải không xảy ra nhưng việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người này còn hạn chế. Có lẽ dư luận, cũng như người dân chưa hài lòng khi có những cán bộ trong các cơ quan tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao gây thiệt hại cho xã hội nhưng không được xử lý theo pháp luật. Tuy nhiên, các cấp lãnh đạo trong các cơ quan tiến hành tố tụng không phải muốn xử lý nhưng việc xử lý lại rất khó vì để chứng minh hành vi thiếu trách nhiệm của cán bộ là người tiến hành tố tụng không đơn giản. Nhiều ý kiến cho rằng, vì họ là người am hiểu pháp luật nên biết cách “lách luật”. Mặt khác bệnh thành tích, cục bộ vẫn còn nặng nề nên việc xử lý lại càng gặp khó khăn hơn.

Khi xác định hành vi phạm tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” có lẽ hiểu như thế nào về dấu hiệu “vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao” là quan trọng nhất.

Nếu theo cách hành văn của điều luật thì dấu hiệu “vì thiếu trách nhiệm” và dấu hiệu “không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao” là hai hành vi khác nhau chứ không phải là một. Vậy, ngoài dấu hiệu “không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao” thì còn có dấu hiệu nào nữa? Lẽ ra, điều luật phải viết: “Người nào có chức vụ, quyền hạn mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao…” thì ai cũng hiểu dấu hiệu “không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao” chính là hành vi thiếu trách nhiệm, chứ không còn hành vi nào khác. Với tinh thần tiếp cận khái niệm “thiếu trách nhiệm” như vậy mới phù hợp. Đây cũng là vấn đề về kỹ thuật lập pháp còn nhiều bất cập, nếu mổ xẻ khái niệm thì rất khó cho việc hiểu và áp dụng. Bởi vì theo từ điển tiếng Việt thì từ “mà” nhà làm luật dùng trong trường hợp này là “kết từ” chứ không phải là “khẩu ngữ”. Khi đã là “kết từ” thì dấu hiệu “không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao” chỉ là bổ sung cho dấu hiệu “thiếu trách nhiệm”.

Không thực hiện là không làm gì cả (không hành động) nên dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ: Sau khi nhận hồ sơ vụ án bị huỷ để điều tra lại từ Viện kiểm sát nhưng cho vào tủ, không tiến hành các bước tiếp theo và để quên đến khi nhớ ra thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đã hết, buộc phải đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can, tiến hành xin lỗi và bồi thường cho người được đình chỉ.

Thực hiện không đúng là có làm nhưng lại làm không đến nơi đến chốn, làm sai với nhiệm vụ được giao nên dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ: Thủ trưởng Cơ quan điều tra thực hiện lệnh bắt người bị tình nghi phạm tội về tạm giữ, nhưng sau khi bắt người giữ trong nhà tạm giữ đã không kiểm tra nên để ĐTV có hành vi dùng nhục hình đối với người bị bắt dẫn đến hậu quả thương tích có tỷ lệ tổn thương cơ thể 61%.

Từ phân tích trên, có thể kết luận, thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao gây hậu quả nghiêm trọng.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại gọi ngay số: 1900.0191 để được giải đáp. Rất mong nhận được sự hợp tác!