1. Khái quát về triết học Hegel
Có thể nói rằng, kể từ Hegel, triết học bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của con người sống trong lịch sử và tạo nên lịch sử. Trước đây Platon và Aristote, với quan niệm về một vũ trụ có bản tính bất biến và vĩnh cửu, đã không quan tâm tới lịch sử. Hay nói đúng, thời gian đối với họ có nghĩa lý gì khi mà mọi vật muôn đời vẫn thế?
Đến Descartes và Kant, triết học được xem đã chuyển qua một hướng khác, hướng của con người nỗ lực giành lại quyền làm chủ thiên nhiên và đề cao tự do của con người. Tuy nhiên, con người của Descartes và Kant vẫn còn lầm lì quá, thế giới của họ vẫn còn tĩnh quá. Phải đợi tới Hegel, ta mới thấy thế giới thực sự chuyển động, thời gian mới trôi chảy một cách liên tục và con người mới rõ mặt là chủ nhân đã tác tạo nên vũ trụ và lịch sử của chính mình. Cho nên điểm son trong triết học Hegel chính là ở chỗ đã khám phá ra con người và thế giới đang hình thành và tiến hóa trong thời gian.
Thế nhưng trước khi đi sâu vào tư tưởng của Hegel, thiển nghĩ cần phải lưu ý ngay ở đây rằng: Triết Hegel là một triết học duy tâm và lịch sử của vũ trụ vạn vật, nói cho cùng chỉ là lịch sử của Tinh Thần trên đường tự giác mà thôi.
2. Chủ trương duy tâm của Hegel
Hegel chủ trương rằng chỉ có một thực tại duy nhất là Tinh Thần Tuyệt Đối (hay Ý Tưởng Tuyệt Đối) là căn nguyên phát sinh ra tất cả vũ trụ vạn vật. Đó là thực tại duy nhất và tự tại chứ không có bất cứ ai tác tạo nên. Nó là một thực thể thuần nhất nhưng lại chứa bên trong một mầm mâu thuẫn. Chính mầm mâu thuẫn ấy đã khiến Ý Tưởng Tuyệt Đối phải rời bỏ trạng thái thường tịch nguyên thủy, tự tha hóa để bước vào lịch trình hiện tượng hóa.
Lịch trình này trải qua nhiều giai đoạn: giai đoạn khoáng vật, thực vật, động vật rồi đến người. Ở giai đoạn khoáng vật Ý Tưởng Tuyệt Đối hầu như còn đắm chìm trong thứ vật chất vô tri giác, còn bị tha hóa một cách trầm trọng nên ta không thấy có chút dấu vết gì khả dĩ gọi là có tự do trong loài đất đá. Đến giai đoạn thực vật, ý niệm tự do mới phảng phất xuất hiện, bởi lẽ loài cây cỏ đã tỏ ra có khả năng lựa chọn, chẳng hạn lựa chọn để hướng về phía có mặt trời. Tới loài động vật thì ý niệm tự do đã phát triển vượt xa hẳn loài thực vật. Và đến người thì ý niệm đó phát triển trọn vẹn. Đây cũng là giai đoạn con người có ý thức về mình và giác ngộ rằng chính Tinh Thần đã tác tạo nên tất cả mọi mặt.
Vậy là sau khi rời bỏ trạng thái nguyên thủy, chuyển vào lịch trình hiện tượng hóa, Tinh Thần Tuyệt Đối theo luật mâu thuẫn, biến thành vô số lịch trình biện chứng, mỗi lịch trình luôn luôn gồm có 3 nhịp: Chính đề, Phản đề và Tổng đề. Cứ như thế Ý Tưởng xuất hiện thành muôn và hiện tượng trong vũ trụ.
Tuy nhiên lịch trình hiện tượng hóa của Tinh Thần Tuyệt Đối không phải là một đường thẳng mà là một đường vòng tròn ốc bởi vì Ý Tưởng ở trạng thái uyên nguyên (chính đề), sau khi chuyển vào các hiện tượng (phản đề), tiến đế cực độ thì lại sẽ quay trở về trạng thái uyên nguyên thuần nhất (hợp đề). Trạng thái uyên nguyên trước kia vì nay đã được bồi dưỡng bởi những kinh nghiệm tích lũy trong quá trình hiện tượng hóa và cuối cùng tự giác được rằng “mình là Tuyệt Đối”.
Như thế chúng ta thấy rằng, khởi thủy Tinh Thần chưa tự biết mình. Tinh Thần chỉ đạt được tự giác, sau khi đã trải qua cuộc tiến hóa trong lịch sử. Cho nên mọi thực tại (thế giới vật chất, văn minh, nghệ thuật, triết lý, tôn giáo, nhà nước…) chỉ là những biểu lộ của Tinh Thần trong lịch sử tiến về tự giác mà thôi. Vậy khi Tinh Thần tìm hiểu thế giới bên ngoài thì không có nghĩa là Tinh Thần đã hiểu những gì khác với mình, mà thực ra chỉ là tìm hiểu chính mình qua những biểu lộ ra bên ngoài. Thường tình, chúng ta chỉ biết mình là kẻ sáng tạo khi đứng trước tác phẩm đã hoàn thành của mình, thì ở đây cũng vậy, tinh thần cũng chỉ có thể tự giác khi đứng trước những hình thái tồn tại khác nhau của mình ở trong vũ trụ.
Tóm lại, nói gì mặc lòng, triết Hegel bản chất vẫn là một triết học duy tâm. Bởi vì đối với Hegel, chỉ có Tinh Thần Tuyệt Đối là thực thể duy nhất và là nguồn gốc uyên nguyên của mọi sự trên đời này.
3. Logic biện chứng của Hegel
Logic học là một môn học nhằm xác định những quy luật và hình thức tư duy chính xác trong việc nhận thức chân lý. Thế nhưng từ logic hình thức của Aristote bước sang logic biện chứng của Hegel, chúng ta thấy có một khác biệt lạ lùng: logic hình thức thì “tĩnh” phản ánh thế giới hoàn toàn im lìm, bất động còn logic biện chứng lại “động” phản ánh thế giới luôn luôn biến đổi khác với trước. Logic hình thức đặt nền tẳng trên nguyên lý đồng nhất và tối kị mâu thuẫn. Trái lại, logic biện chứng lại đề cao nguyên lý mâu thuẫn, coi mâu thuẫn như là điều kiện của mọi tiến bộ trong vũ trụ.
Hegel quan niệm rằng sự vật nào cũng luôn luôn biến dịch theo luật biến chứng, tức theo một quá trình gồm 3 nhiệp: chính đề (tức quyết thể), phản đề (hủy thể) và hợp đề (hủy thể của hủy thể). Như vậy, mâu thuẫn xuất hiện ở nhịp hai để phá vỡ tình trạng hiện có, đưa sự vật đến một tình trạng hoàn hảo hơn. Chẳng hạn tình trạng mù chữ (chính đề) phải bị hủy đi bằng sự học đọc học viết (phản đề) thì ta mới trở thành người biết chữ (hợp đề). Nhưng tình trạng mới biết đọc biết viết sẽ bị vượt qua để tiến tới một tình trạng có kiến thức cao hơn. Do đó, mọi vật muốn tiến bộ, phải hủy tình trạng cũ để đạt đến tình trạng mới; rồi lại hủy tình trạng mới để đạt đến tình trạng mới hơn nữa… Cứ thế sự vật biến dịch đến vô tận cho đến khi Tinh Thần Tuyệt Đối tự giác mình là Tuyệt Đối.
Vậy không có vật nào giữ mãi ở trạng thái lầm lì, bất biến. Dù là đất đá vô tri giác cũng vẫn thay đổi như thường. Dù là đất đá vô tri giác cũng vẫn thay đổi như thường. Cho nên có thể quyết rằng mọi vật, nhanh hay chậm, bao giờ cũng đổi ra khác. Và động lực biến chúng ra thành khác chính là do ở sức mâu thuẫn ẩn chứa trong mỗi sự vật.
Nhưng theo Hegel, các sự vật sau khi tiến qua chính đề và phản đề để đạt tới tình trạng hoàn hảo hơn ở hợp đề thì chân lý trong mỗi trường hợp đó cũng chỉ là một chân lý phiến diện, thiếu hụt, chưa tròn đầy. Bởi vì mỗi hợp đề như vậy rồi sẽ trở thành một chính đề mới và sẽ lại bị hủy bởi một phản đề khác. Cho nên cái chân lý lý tưởng, đối với Hegel, phải là một chân lý “toàn diện”. Cái chân lý ấy chỉ xuất hiện ở tận cùng lịch sử, ở một “nhịp ba tối cao”, bao trùm hết mọi đối nghịch và mâu thuẫn trong vũ trụ. Đó là lúc, sau khi trải qua hết cuộc hành trình của số kiếp, Tinh Thần Tuyệt Đối nhận ra mình: nhận ra rằng mình là nguồn gốc của mọi mâu thuẫn và biến dịch ở đời, mình là tác giả của mọi vật trong vũ trụ.
4. Sử quan của Hegel
Đây là phần Hegel sử dụng luận lý biện chứng vào việc nghiên cứu lịch sử của tinh thần con người. Trong cuốn “Hiện tượng học về tinh thần”, Hegel đề cập đến 3 giai đoạn của quá trình tiến hóa như sau:
4.1. Con người là ý thức:
Con người là ý thức, hay nói đúng hơn, đây là giai đoạn con người có ý thức về ngoại vật. Trong quá trình biện chứng, ý thức ngoại vật cũng qua ba nhịp: cảm giác, tri giác, trí năng.
Khởi đầu, tâm trí ta là một ý thức thuần túy, trống rỗng, chưa có nội dung. Đến khi gặp sự vật, ý thức mới được đổ đầy bởi sự vật, ý thức gắn liền với sự vật trong thể sinh hoạt của nó. Nói cách khác ở giai đoạn này ý thức mới gặp sự vật này sự vật nọ nhưng chưa có sự phản tỉnh về các sự vật ấy. Đó là lúc ý thức bị “tha hóa”.
Đến giai đoạn hai, giai đoạn tri giác (tức hủy thể của ý thức cảm giác) “tâm trí ta không còn vướng mình trong những sự vật đặc thù, trái lại vươn tới sự vật trong bản chất phổ quát của nó. Nói khác đi, ý thức tri giác là ý thức về sự vật đã được xếp thành các khái niệm có thuộc tính chung, chủ yếu, bản chất. Ví dụ sông, núi, bàn, ghế… Như vậy chữ tri giác của Hegel rất khác với chữ tri giác của chúng ta dùng hiện nay và nó gần giống nghĩa với chữ khái niệm (tức tri thức đã phản tỉnh và đạt đến trình độ trừu tượng, phổ quát).
Giai đoạn thứ ba là giai đoạn trí năng. Đó là giai đoạn tâm trí ta nhận ra rằng sự vật mà lâu nay ta tưởng là những đối tượng xa lạ, độc lập ở ngoài ta thật ra chỉ là những hình ảnh của ta có về nó mà thôi. Bởi vì tính chất sâu xa của sự vật (mặt trong của sự vật hay bản tính tự thân của sự vật) chẳng có gì khác hơn là tổng số của những hiện tượng bên ngoài, tổng số những cảm giác ta có về nó. Thế là tâm thức đã hư vô hóa tất cả những sự vật trong thiên nhiên: không có những sự vật tự thân, tự tại ở ngoài ta.
Tóm lại, tâm thức trong lần xuất ngoại đầu tiên đã trở thành sự vật tha hóa. Nhưng tiếp đó tâm thức đã hủy tính chất đặc thù ở nơi sự vật, biến sự vật thành những đối tượng phổ quát. Cuối cùng, sau nhiều lần kinh nghiệm về sự vật, tâm thức nhận ra và quyết chắc rằng sự vật không có gì khác hơn là những nhận định của ta về sự vật mà thôi. Không có những sự vật tự thân, tự tại mà chỉ có những quan niệm của chúng ta về chúng.
4.2. Con người là ý thức về mình:
Trên đây chúng ta vừa chứng kiến một chiến thắng của tâm thức trong việc tiêu hủy hoàn toàn tính chất tự thân của vũ trụ, thiên nhiên. Vạn vật từ nay đã biến thành những quan niệm của tâm thức.
Tuy niên nếu tâm thức giải quyết cuộc giằng co giữa tâm và vật, giữa ta và vũ trụ một cách dễ dàng và ngoạn mục thì ngược lại tâm thức lại vấp phải một cuộc “tử chiến” vô cùng cam go giữa các tâm thức với nhau, cuộc tử chiến mà Hegel gọi là tử chiến giữa chủ và nô.
“Tôi chỉ là một tâm thức tự thức nếu tôi được một tâm thức tự thức khác nhìn nhận và tôi cũng nhìn nhận nó như thế”. “Nhìn nhận”, nguyên do rắc rối là ở chỗ đó.
Con người không muốn “có đấy” như những sự vật mà còn muốn được nhìn nhận, được xem là chủ nhân ở trong xã hội. Nhưng nếu giữa hai người, ai cũng muốn làm chủ thì nhất định phải xảy ra cuộc tử chiến. Kết quả là bên nào dám liều mạng sống để quyết đạt cho kỳ được quyền làm chủ thì sẽ trở thành chủ nhân, bên nào dám liều mạng sống để quyết đạt cho kỳ được quyền làm chủ thì sẽ trở thành chủ nhân, bên nào ham sống sợ chết thì can tâm làm nô lệ. Và cuộc tử chiến chấm dứt bằng sự truy nhân lẫn nhau; Chủ coi mình là chủ nhân của nô. Còn nô thì tự nhận mình là nô lệ của chủ. Từ đây nô hoàn toàn thuộc về chủ. Ý nghĩ và hành động của nó tức là ý nghĩ và hành động của chủ. Vậy là giữa hai tâm thức đã biến mất đi một và chỉ còn tâm thức của chủ mà thôi.
Hegel cũng có nói rằng nô vì phải cần lao cho chủ mà khám phá được rằng con người có khả năng biến đổi thiên nhiên và bắt thiên nhiên phục vụ cho mình. Nô nhờ lao động mà làm chủ thiên nhiên, đó chính là con đường phải giải thoát của nô lệ. Nhưng nó vẫn là nô vì sợ chết và đành quy phục chủ. Tuy nhiên Hegel trước sau vẫn đề cao ý thức của chủ và coi đó là tượng trưng cho sự tự chủ của tinh thần. Mãi sau này Marx mới lật ngược lại giá trị của nô, coi nô (giai cấp vô sản) mới là khả năng sáng tạo và sản xuất ra mọi tài nguyên trong xã hội. Nô mới đáng là chủ nhân của xã hội còn chủ (giai cấp tư sản) chỉ là hạng ăn bám.
Mặt khác Hegel cũng đã đề cập đến phái Khắc Kỷ và Hoài Nghi nhiều lần trong các tác phẩm của ông, nhất là trong cuốn Hiện tượng học và cuốn Logic học. Ông coi ý thức hoài nghi là hình thức toàn hảo của ý thức về mình, tức ý thức đã bỏ rơi vũ trụ để quay về với chính mình.
Ý thức khắc kỷ thì quyết tâm đi tìm cái tuyệt đối nhưng chỉ gặp trong vũ trụ toàn là những cái tương đối, bởi vậy đâm ra thất vọng rồi bỏ rơi vũ trụ và quay về với chính mình. Ý thức khắc kỷ từ nay không còn ngó ngàng gì đến thế giới bên ngoài nữa.
Song thái độ đó chỉ mới là thái độ phủ nhận vũ trụ. Bởi vì vũ trụ vẫn còn đấy; vũ trụ chỉ mới bị họ ngoảnh mặt làm ngơ thôi. Với thái độ của phái Hoài nghi thì vũ trụ mới thực tan biến thành mây khói. Ý thức của người hoài nghi không những phủ nhận vũ trụ mà còn chối bỏ hẳn vũ trụ nữa. Hegel bảo: “Trong Hoài nghi chủ nghĩa, ý thức nhận rõ tính chất vô yếu tính và lệ thuộc của Tha thể”. Họ coi Tha thể (tức vũ trụ) là vô yếu tính; như thế có nghĩa vũ trụ không là gì hết, hư vô… Đằng khác nếu tha thể không là gì hết thì nó sẽ phải hoàn toàn lệ thuộc vào ý thức.
Như vậy nhờ ý thức mà mọi khách thể được phát sinh và tồn tại. Cho nên ý thức tự quy rõ ràng là một hiện hữu duy nhất sau khi ý thức đó đã đẩy vũ trụ và thế hư vô.
4.3.Con người là lý trí:
Sau khi biết mình là ý thức, rồi biết mình là ý thức tự quy, bây giờ tâm thức lại biết mình là lý trí.
“Lý trí là ý thức tự quy biết chắc mình là tất cả thực tại”, là tất cả những gì có thực đang tồn tại.
Trước đây trong ý thức về ngoại vật và ý thức về tha nhân, tâm thức cũng đã biết mình là tất cả thực tại. Nhưng đó là cái biết chủ quan, nay tâm thức còn có thể chứng nghiệm một cách khách quan rằng mình có khả năng tác tạo nên tất cả thực tại nữa.
- Trong các khoa học vô cơ
Chẳng hạn trong khoa vật lý, lý trí thiết lập được những định luật đang chi phối sự vận hành của thiên nhiên. Nắm vững những định luật vật lý này, con người có thể chế tạo nên các sự vật như ta từng thấy ở trong phòng thí nghiệm và trong kỹ nghệ. Thế mà những định luật chúng ta vừa nói đến cũng chỉ là con đẻ của lý trí thôi.
- Trong các khoa học hữu cơ
Vật hữu cơ là vật có sự sống như thực vật và động vật. Lý trí thiết lập được hai định luật đã chi phối tất cả các vật thuộc loại này là luật thích ứng và luật cứu cánh.
Thích ứng ở đây là thích ứng với môi trường sống (khí hậu, đất, nước, thực phẩm…) Còn về luật cứu cánh thì có thể nói, tất cả hoạt động của sinh vật đều nhằm bảo toàn sự sống của nó và của loài nó. Biết được những định luật của các vật hữu cơ, con người có thể pha giống nhiều loại cây và súc vật cũng như có thể đem một giống vật ở xứ lạnh về nuôi ở xứ nóng bằng cách tạo cho nó một môi trường thích hợp. Cho nên khi đưa ra được các định luật về thích ứng và cứu cánh, con người có thể tự hào là đã thấu triệt được cái lẽ sống của các sinh vật. Hay nói cách khác, con người là tác giả của các định luật thì con người cũng là tác giả của các loài hữu cơ. Bởi vậy Hegel mới nói: “Tất cả vũ trụ vạn vật chỉ là hình ảnh của chúng ta”.
- Trong các khoa học nhân văn
Đây là nơi con người nhận ra “mình là tất cả” không phải bằng quan sát như ở các khoa học vô cơ và hữu cơ mà bằng hành động. “Lý trí hành động là lý trí muốn tác tạo nên chính mình”. Tại sao vậy?
Như chúng ta biết, con người bản chất là một vật tự do nên nó tự do trong việc tác tạo nên chính mình. Mình ra sao là hoàn toàn do mình tạo nên. Chính trong sinh hoạt nhân vị ấy mà con người nhận ra sự chủ động của mình cùng khả năng sáng tạo của mình.
Vậy là sau khi biết mình đã tác tạo nên các vật vô cơ và chi phối được các vật hữu cơ, tâm thức lại biết được rằng chính mình có thể thực hiện bản lĩnh của mình: Mình là tất cả.
4.4. Con người là tinh thần:
Với tinh thần, con người lại bước thêm một bước nữa trên đường tự giác. Nhìn vào lịch sử nhân loại, ta thấy có 3 giai đoạn. Đó cũng là 3 nhịp biện chứng của Tinh Thần:
- Thời kỳ thứ nhất: Tượng trưng bởi xã hội Hy Lạp và La Mã xưa. Đó là thời mà con người chỉ mới nhận biết mình là công dân của một xứ sở, một dân tộc chứ chưa ý thức mình là một chủ thể riêng biệt. Con người chưa có sinh hoạt nhân vị tự do và chỉ mới sinh hoạt như mọi người trong cộng đồng dân tộc.
Con người chưa sống như một chủ thể. Về đạo đức, mỗi thành viên phải tuân thủ nghiêm ngặt các phong tục tập quán của cộng động. Nhà nước là khuôn khổ của mọi sinh hoạt cá nhân. Hegel gọi giai đoạn này là giai đoạn tha hóa của bản ngã.
- Thời kỳ thứ hai: Từ Trung cổ đến thế kỷ 18, tượng trưng bởi Ki tô giáo. Ở giai đoạn này con người thôi phát triển bản ngã theo đà của đoàn thể và đã biết nhận lãnh trách nhiệm về hành vi của mình, bắt đầu sinh hoạt như một chủ thể. Đó là căn nguyên gây nên sự khổ não nơi con người. Con người ray rứt trong ước vọng khám phá ra giá trị riêng của mình chứ không muốn sống rập khuôn theo cộng đồng. Cho nên đó là điều kiện làm phát sinh ra văn hóa.
Thế là con người từ chối bản ngã hiện có, bản ngã trực tiếp, bản ngã “như thiên hạ” để nhằm đến một bản ngã cao hơn.
- Thời kỳ thứ ba: Tượng trưng bởi “thời đại ánh sáng” tức thế kỷ 18 với cuộc cách mạng Pháp, mở đầu cho một giai đoạn mới, giai đoạn của nhân đạo và tự do.
Theo Hegel, trong thời kỳ thứ hai, con người khao khát đạt đến cái toàn thiện nhưng không làm sao có thể thực hiện bởi lẽ con người còn đặt cái toàn thiện ấy ở nơi Thượng Đế. Nay con người mới giác ngộ ra rằng cái toàn thiện ấy chẳng qua cũng chỉ là hình ảnh của chính mình được tuyệt đối hóa mà thôi. Vậy là cái thế giới toàn thiện đã bị tha hóa trước kia, giờ đây đã được thu hồi về chủ thể. Hai thế giới đã hợp thành một và “Trời đã chuyển xuống đất”. Hay nói đúng hơn, Trời đã chuyển vào tâm thức con người.
4.5. Con người là tinh thần tuyệt đối
Cho đến đây, tâm thức con người đã vượt qua bốn chặng đường:
Ở chặng một, tâm thức tưởng mình là trống rỗng (thuần túy), đồng thời tưởng lầm rằng vạn vật trong thiên nhiên là những hiện hữu khách quan ở ngoài tâm thức.
Thế rồi Hegel vạch cho ta thấy rằng thiên nhiên thực ra chỉ là quan niệm của tâm thức (ở cuối chặng một), tha nhân là một cách tồn tại khác của tâm thức (ở chặng hai), khoa học là một sản phẩm khác của tâm thức (ở chặng ba) và lịch sử cũng chỉ là sinh hoạt của tâm thức mà thôi (ở chặng bốn).
Bây giờ còn một chút nữa là tâm thức đi hết vòng một trong việc thu hồi tất cả thực tại vào mình hay chứng minh rằng mình là tất cả thực tại. Chỗ còn lại ấy chính là tột đỉnh của tinh thần: Chân, Thiện, Mỹ (tức Thượng Đế trong tôn giáo vì Thượng Đế là một đấng toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ).
Hegel bảo con người vừa là một tự ngã (en-soi), vừa là một quy ngã (pour-soi). Là tự ngã khi con người chỉ là một hữu thể tự tại, một sinh vật im lìm. Là quy ngã khi con người là một chủ thể chủ động. Do đó con người chỉ hết tha hóa khi đạt được tình trạng tự ngã quy ngã (en-soi-pour-soi) nghĩa là thâu gồm tất cả thực tại vào trong mình. Như thế con người vừa là hữu hạn, vừa là vô hạn. Ông lại bảo, vì tâm thức con người vốn “rỗng” nên nó có thể thu tóm tất cả thực tại vào nó, kể cả Tuyệt Đối. Nói trắng ra, tâm thức con người cũng là Tuyệt Đối, là tất cả. Ở trong trời đất này chỉ có một hiện hữu duy nhất đó là Tinh Thần Tuyệt Đối. Tinh Thần ấy sau khi rời bỏ trạng thái uyên nguyên, trải qua hết vòng hành trình của số kiếp, giờ đây mới nhận ra mình là Tuyệt Đối, là tất cả Thực Tại.
Đẩy tâm thức đến chỗ thu hồi được tất cả thực tại tức là Hegel đã có thể xoa tay khoan khoái đứng nhìn “kiệt tác” của mình.
Thế nhưng người đọc thì không có được cái khoan khoái như tác giả: Có người bảo Hegel đã xây sử quan của ông bằng một tưởng. Có người bảo Hegel đã đẩy chủ trương Duy tâm đến chỗ tuyệt đối. Nhưng đặc biệt là Kierkegaard và Marx thì đã chỉ trích Hegel một cách nặng nề. Marx bảo “Hegel đã bắt lịch sử đi bằng đầu” nên bây giờ ông “phải lật lịch sử xuống để nó đi bằng chân”. Còn Kierkegaard trong ký sự 1837 thì chế diễu Hegel là “một con quạ đã đánh mất mồi ngon vì trổ tài hùng biện”. Thực vậy, Hegel vì ham lý sự hùng hồn mà quên mất cuộc đời thiết thực và quên rằng con người chỉ là một vật hữu hạn ở trần gian chứ không phải là một hữu thể tuyệt đối. Bởi lẽ đó Kierkegaard mới kêu gọi: “Hỡi các bạn: Hãy xa lánh hệ thống trừu tượng, tức là trước hết phải xa lánh Hegel”. Đúng thế, phải xa lánh Hegel; vì chúng ta không thể nào sống cuộc đời thiết thực bằng thứ triết lý viển vông, trừu tượng…
5. Quan niệm về quốc gia
Trong tác phẩm “Những nguyên tắc của triết lý pháp lý”, Hegel quan niệm quốc gia đã phát triển qua 3 giai đoạn phù hợp với 3 nhịp biện chứng như sau:
5.1. Gia tộc (chính đề)
Theo Hegel, ban đầu con người sống trong gia tộc. Đó là một tập thể tự nhiên và mọi người sống ở trong đó hoàn toàn dựa trên tình cảm. Các cá nhân sống chan hòa trong gia tộc và đều là những “nhân viên” của gia tộc.
5.2. Xã hội (phản đề)
Qua giai đoạn hai, con người sống trong xã hội dân sự. Đó là hình thức xã hội bao gồm những cá nhân rời rạc, kết hợp vì quyền lợi, được bảo đảm an ninh, tài sản và tự do cá nhân. Trong giai đoạn này quốc gia theo cá nhân chủ nghĩa. Người dân lo theo đuổi những quyền lợi riêng tư chứ không còn hòa mình hoàn toàn vào gia tộc như trước đây: Bây giờ người dân tưởng là đã tự do nhưng thực sự họ mới đạt đến một thứ tự do thấp kém, tuy cần thiết nhưng chưa đầy đủ, đích thực.
5.3. Quốc gia (hợp đề)
Đến giai đoạn thứ ba, ta mới có một quốc gia chân chính vượt lên trên tổ chức gia tộc sơ thủy và tổ chức quốc gia theo cá nhân chủ nghĩa. Trong quốc gia, các cá nhân đạt đến Ý chí chung và việc hợp nhất trong cộng đồng. Luật pháp trong giai đoạn này hoàn toàn có tính cách vô tư, vừa bảo đảm sự sống chung, vừa bảo đảm quyền lợi riêng tư cho từng người. Con người đạt đến sự tự do chân chính và khách quan. Sự tự do này không tiêu hủy tự do chủ quan mà con người đã đạt được theo cá nhân chủ nghĩa, trái lại còn làm cho nó trở nên tốt đẹp hơn.
Đó là 3 giai đoạn phát triển của quốc gia.
Còn về quyền hành quốc gia, Hegel có nghĩ đến việc phân quyền nhưng vì muốn bênh vực chế độ quân chủ của vua nước Phổ thời đó nên chủ trương phải tập trung cả 3 quyền vào trong tay Quốc Vương. Ông bảo nếu để 3 thứ quyền này độc lập nhau sẽ có thể gây nên tranh chấp và đưa quốc gia đến chỗ hỗn loạn, đổ vỡ. Vậy nên Hegel mới quyết rằng: “Quyền hành của Quốc Vương gồm cả ba thứ công quyền: Làm luật cho mọi người, áp dụng luật vào những trường hợp riêng, sau cùng là quyền phán quyết trung thẩm. Phán quyết tuyệt đối là đặc tính của uy quyền Quốc Vương”.
Chủ trương tập trung quyền hành vào một người, dù bản chất của triết học Hegel là nhằm đến Tuyệt Đối (nên quyền hành cũng tuyệt đối) nhưng trong thực tế một chủ trương như vậy chỉ đưa quốc gia đến chỗ độc tài. Bởi vậy không thiếu gì người chỉ trích Hegel là lý thuyết gia đã biện minh chính cho chế độ chuyên chế của nước Phổ và công nhận quyền hành tuyệt đối của quốc gia trên người dân.