1. Mở đầu vấn đề 

Cơ quan Thi hành án dân sự tổ chức thi hành bản án, quyết định theo quy định của pháp luật. Trong quá trình tổ chức thi hành án, nếu phát hiện bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành thì có quyền yêu cầu Tòa án giải thích, đính chính hoặc bản án, quyết định có vi phạm pháp luật thì có quyền kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định theo quy định của pháp luật.

=> Đây là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự được qui định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều 23 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi năm 2014. Quy định này là rất cần thiết, không những là nhiệm vụ, quyền hạn mà còn là trách nhiệm của cơ quan Thi hành án dân sự đối với bản án, quyết định mình có trách nhiệm tổ chức thi hành.

Trong quá trình giải quyết vụ án, khi ban hành bản án, quyết định cơ quan có thẩm quyền không tránh khỏi thiếu sót, vi phạm do nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ quan Thi hành án dân sự không chỉ tổ chức thi hành bản án, quyết định. Mà còn kiểm tra tính đúng đắn, có căn cứ của bản án, quyết định mình đưa ra thì hành. Để cùng với cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết vụ việc chính xác, thấu tình đạt lý, có căn cứ, đúng pháp luật. Hạn chế oan sai trong xét xử và thi hành án. Vì thế, trách nhiệm của cơ quan Thi hành án dân sự đối với bản án, quyết định mình đưa ra thi hành rất quan trọng. Có ý nghĩa thiết thực đối với quá trình giải quyết vụ án, đảm bảo giải quyết vụ án đúng pháp luật, hạn chế oan sai. Để được như vậy, pháp luật phải quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự đối với bản án, quyết định đưa ra thi hành.

>>  Tư vấn luật thi hành án dân sự , gọi: 1900.0191

 

2. Ra quyết định thi hành án 

Tại điều Điều 36  Luật Thi hành án dân sự sửa đổi năm 2014 quy định “Ra quyết định thi hành án” là:

– Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án khi có yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

Thời hạn ra quyết định thi hành án theo yêu cầu là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu thi hành án.

– Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền chủ động ra quyết định thi hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành đối với phần bản án, quyết định sau:

a) Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án;

b) Trả lại tiền, tài sản cho đương sự;

c) Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản; các khoản thu khác cho Nhà nước;

d) Thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước;

đ) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

e) Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định quy định tại các điểm a, b, c và d khoản này, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án.

Đối với quyết định quy định tại điểm đ khoản này thì phải ra ngay quyết định thi hành án.

Đối với quyết định quy định tại điểm e khoản này thì phải ra quyết định thi hành án trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định.

– Quyết định thi hành án phải ghi rõ họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; số, ngày, tháng, năm, tên cơ quan, tổ chức ban hành bản án, quyết định; tên, địa chỉ của người phải thi hành án, người được thi hành; phần nghĩa vụ phải thi hành án; thời hạn tự nguyện thi hành án.

– Chính phủ quy định chi tiết Điều này.”

 

3. Thi hành vụ án dân sự trên thực tế

Thực tế cho thấy có những bản án, quyết định vi phạm pháp luật nghiêm trọng, nhất là các vụ án hình sự và dân sự. Làm oan sai cho công dân, hậu quả khó khắc phục, gây bức xúc trong dư luận. Cơ quan Thi hành án dân sự thấy “Chết” mà không cứu được. Nếu không tổ chức thi hành theo bản án, quyết định thì vi phạm pháp luật, án sẽ tồn đọng kéo dài. Nếu tổ chức thi hành thì đương sự chống đối quyết liệt, dư luận không đồng tình, cơ quan, tổ chức không ủng hộ, lương tâm những người làm công tác thi hanh án day dứt, …

Là cơ quan trực tiếp thi hành bản án, quyết định, cơ quan Thi hành án dân sự gặp không ít bản án, quyết định thiếu sót, vi phạm được thể hiện ngay trong bản án, quyết định đó. Cơ quan Thi hành án dân sự đã thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình hay nói cách khác thể hiện trách nhiệm của mình đối với bản án, quyết định theo quy định của pháp luật. Nhưng cơ quan có thẩm quyền không giải quyết hoặc có văn bản giải quyết nhưng không có căn cứ, không đúng văn bản yêu cầu, kiến nghị của cơ quan Thi hành án dân sự. Gây không ít khó khăn, phức tạp cho việc tổ chức thi hành án, mà pháp luật chưa quy định cơ chế giải quyết. Dẫn đến, cơ quan Thi hành án dân sự “Thấy sai” vẫn phải làm.

Hoặc khi đưa bản án, quyết định ra thi hành, người phải thi hành án hoặc thân nhân của họ kêu oan, phản ứng gay gắt, khiếu kiện kêu oan liên tục, kéo dài. Cơ quan Thi hành án dân sự không thể làm ngơ, vô tình trước cảnh tượng này. Để thực hiện nhiệm vụ “Kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định theo quy định của pháp luật” thì phải có căn cứ, đúng pháp luật. Chỉ dựa vào bản án, quyết định hoặc lời trình bày của đương sự là chưa đủ. Phải thu thập chứng cứ, tài liệu, … Nhưng pháp luật không quy định cho cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền này. Do đó, chưa đủ chứng cứ để kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định theo quy định của pháp luật, buộc phải thi hành theo bản án, quyết định mặc cho đương sự kêu oan.

Thiết nghĩ, để cụ thể hóa (điểm d khoản 1 Điều 23 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã cụ thể hóa tại khoản 3 Điều 52a). Cần phải có một điều luật quy định trách nhiệm của cơ quan Thi hành án dân sự đối với bản án, quyết định đưa ra thi hành.

 

4. Những điều cần lưu ý về thi hành án dân sự 

Cần quy định thẩm quyền cho cơ quan thi hành án dân sự trong việc thu thập chứng cứ, tài liệu,… đối với những bản án, quyết định có dấu hiệu vi phạm pháp luật mà chưa đủ chứng cứ để thực hiện việc kiến nghị theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, pháp luật cần quy định trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan tạo điều kiện thuận lợi dể cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện nhiệm vụ. Nếu không thực hiện sẽ có chế tài xử lý theo pháp luật quy định.

Cơ quan ban hành bản án, quyết định phải trả lời kiến nghị của cơ quan Thi hành án có căn cứ, đúng pháp luật, trong thời hạn luật định. Hết thời hạn luật định mà không trả lời hoặc trả lời không có căn cứ, không đúng pháp luật thì cơ quan Thi hành án dân sự có quyền trả lại bản án, quyết định cho cơ quan đã ban hành.

Văn bản kiến nghị của cơ quan Thi hành án dân sự, không có căn cứ, không đúng pháp luật, kéo dài việc thi hành án, làm ảnh hưởng đến việc tổ chức thi hành án, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan ban hành bản án, quyết định cũng phải quy định chế tài xử lý.

Nếu pháp luật quy định như vậy, thì cơ quan Thi hành án dân sự có trách nhiệm hơn đối với bản án, quyết định mình đưa ra thi hành. Tạo mối quan hệ hữu cơ giữa cơ quan xét xử và cơ quan Thi hành án. Hạn chế đáng kể oan sai trong xét xử và thi hành án. Đảm bảo vụ việc được giải quyết công minh, chính xác, đúng pháp luật. Dư luận đồng tình ủng hộ, bản án, quyết định được nghiêm chỉnh thi hành, hạn chế đáng kể án tồn đọng kéo dài nhiều năm không thi hành được.

 

5. Xác minh điều kiện thi hành án

– Cơ sở pháp lý: Điều 44 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi năm 2014 quy định về “Xác minh điều kiện thi hành án” như sau:

– Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên tiến hành xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải tiến hành xác minh ngay.

Người phải thi hành án phải kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án với cơ quan thi hành án dân sự và phải chịu trách nhiệm về việc kê khai của mình.

– Trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án thì ít nhất 06 tháng một lần, Chấp hành viên phải xác minh điều kiện thi hành án; trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án là người đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới của người phải thi hành án thì thời hạn xác minh ít nhất 01 năm một lần. Sau hai lần xác minh mà người phải thi hành án vẫn chưa có điều kiện thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho người được thi hành án về kết quả xác minh. Việc xác minh lại được tiến hành khi có thông tin mới về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.

– Cơ quan thi hành án dân sự có thể ủy quyền cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, cư trú, làm việc hoặc có trụ sở để xác minh điều kiện thi hành án.

– Khi xác minh điều kiện thi hành án, Chấp hành viên có trách nhiệm sau đây:

a) Xuất trình thẻ Chấp hành viên;

b) Xác minh cụ thể tài sản, thu nhập, các điều kiện khác để thi hành án; đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm thì còn phải xác minh tại cơ quan có chức năng đăng ký tài sản, giao dịch đó;

c) Trường hợp xác minh bằng văn bản thì văn bản yêu cầu xác minh phải nêu rõ nội dung xác minh và các thông tin cần thiết khác;

d) Trường hợp người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức thì Chấp hành viên trực tiếp xem xét tài sản, sổ sách quản lý vốn, tài sản; xác minh tại cơ quan, tổ chức khác có liên quan đang quản lý, bảo quản, lưu giữ thông tin về tài sản, tài khoản của người phải thi hành án;

đ) Yêu cầu cơ quan chuyên môn hoặc mời, thuê chuyên gia để làm rõ các nội dung cần xác minh trong trường hợp cần thiết;

e) Lập biên bản thể hiện đầy đủ kết quả xác minh có xác nhận của Ủy ban nhân dân hoặc công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi tiến hành xác minh.

– Người được thi hành án có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh điều kiện thi hành án, cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự.

Trường hợp Chấp hành viên thấy cần thiết hoặc kết quả xác minh của Chấp hành viên và người được thi hành án khác nhau hoặc có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thì phải xác minh lại. Việc xác minh lại được tiến hành trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kết quả xác minh do đương sự cung cấp hoặc nhận được kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân.

– Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc xác minh điều kiện thi hành án:

a) Cơ quan, tổ chức, công chức tư pháp – hộ tịch, địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường, cán bộ, công chức cấp xã khác và cá nhân có liên quan thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên và phải chịu trách nhiệm về các nội dung thông tin đã cung cấp;

b) Bảo hiểm xã hội, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; ký vào biên bản trong trường hợp Chấp hành viên xác minh trực tiếp hoặc trả lời bằng văn bản trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của Chấp hành viên, đối với thông tin về tài khoản thì phải cung cấp ngay;

c) Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin khi người được thi hành án hoặc người đại diện theo ủy quyền của người được thi hành án có yêu cầu trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu, trừ trường hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân từ chối cung cấp thì phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do.

– Trường hợp người được thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân không cung cấp hoặc cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, thanh toán các chi phí phát sinh, trường hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi thường.

 

Trân trọng!

Bộ phận tư vấn pháp luật dân sự – Công ty luật LVN Group