1. Tự do ngôn luận là gì ?

Tự do ngôn luận (freedom of speech) là nguyên tắc đảm bảo cho một cá nhân hay một cộng đồng quyền tự do nói ra rõ ràng quan điểm và ý kiến của mình mà không sợ bị trả thù, kiểm duyệt, hay trừng phạt pháp lý. Quyền “tự do biểu đạt” (freedom of expression) đã được công nhận là quyền con người trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR) và luật nhân quyền quốc tế của Liên hợp quốc. Nhiều quốc gia đã ghi nhận quyền tự do ngôn luận trong hiến pháp. Các thuật ngữ tự do ngôn luận và tự do biểu đạt thường được sử dụng thay thế lẫn nhau trong các diễn ngôn chính trị. Tuy nhiên, trong ngôn từ pháp lý, tự do biểu đạt bao hàm tất cả hoạt động tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt bất kỳ thông tin hoặc ý kiến nào thông qua mọi phương tiện truyền thông.

Điều 19 của UDHR quy định rằng “ai cũng có quyền giữ quan điểm mà không bị can thiệp” và “ai cũng có quyền tự do biểu đạt; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến thông tin và ý kiến tất cả các loại, không kể biên giới quốc gia, bất kể bằng lời nói, bằng văn bản hay in ấn, dưới hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua bất kỳ phương tiện truyền thông nào khác tùy theo sự lựa chọn của họ”. Điều 19 trong ICCPR sau đó cải thiện điều này với việc chỉ ra rằng việc thực hiện các quyền này mang theo “nhiệm vụ và trách nhiệm đặc biệt” và “theo đó phải tuân theo các hạn chế nhất định” khi cần thiết “để tôn trọng quyền hoặc danh dự của những người khác” hoặc “để bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, hoặc sức khỏe hay đạo đức cộng đồng”.

Do đó, quyền tự do ngôn luận và biểu đạt có thể không được nhìn nhận như là quyền tuyệt đối. Những hạn chế chung về tự do ngôn luận liên quan đến hành động phỉ báng, vu khống, sự tục tĩu, khiêu dâm, xúi giục, kích động, ngôn từ gây hấn, thông tin bí mật, vi phạm bản quyền, bí mật thương mại, nhãn dán thực phẩm, thỏa thuận bảo mật thông tin, quyền riêng tư, quyền được lãng quên, an ninh công cộng, và khai man.

Những hạn chế này được biện minh bằng “nguyên tắc gây hại” (harm principle), được đề xuất bởi John Stuart Mill trong tác phẩm Bàn về tự do (On Liberty), trong đó có nêu: “mục đích duy nhất mà quyền lực có thể được thực thi một cách chính đáng đối với bất kỳ thành viên nào của một cộng đồng văn minh, ngược lại ý chí của anh ta, là nhằm ngăn chặn sự tổn hại cho người khác.” 

Ý tưởng về “nguyên tắc xúc phạm” (offense principle) cũng được sử dụng để biện minh cho các hạn chế với ngôn luận, theo đó các hình thức biểu đạt được coi là gây ảnh hưởng xấu đến xã hội có thể bị hạn chế, tùy theo các yếu tố như mức độ, thời lượng, động cơ của người nói và mức độ dễ dàng trong việc tránh khỏi các ngôn luận đó. Cùng với sự phát triển của thời đại kỹ thuật số, việc đưa tự do ngôn luận vào thực tế càng gây nhiều tranh cãi hơn khi ngày càng có nhiều phương tiện để giao tiếp cũng như hạn chế [tự do ngôn luận .ND]. Đơn cử như Dự án Chiếc Khiên Vàng (Golden Shield Project), dự án của Bộ Công an Trung Quốc nhằm lọc dữ liệu có nguy cơ gây bất lợi từ nước ngoài.

 

2. Nguồn gốc của quyền tự do ngôn luận

Tự do ngôn luận và biểu đạt có một lịch sử lâu đời trước cả các văn kiện nhân quyền quốc tế của ngày nay. Người ta cho rằng nguyên tắc dân chủ của người Athen (Athenian democratic principle) cổ đại về tự do ngôn luận có thể đã xuất hiện vào cuối thế kỷ thứ 6 hoặc đầu thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Các giá trị của nền Cộng hòa La Mã đã bao gồm quyền tương tự đối với tự do ngôn luận và tự do tôn giáo.

Các khái niệm về tự do ngôn luận cũng có thể được tìm thấy trong các tài liệu nhân quyền từ sớm. Tuyên ngôn về các quyền của con người và công dân (Declaration of the Rights of Man and of the Citizen), được thông qua trong Cuộc cách mạng Pháp năm 1789, đặc biệt khẳng định quyền tự do ngôn luận như một quyền không thể thay đổi. Tuyên ngôn quy định quyền tự do ngôn luận trong Điều 11, trong đó nêu rõ rằng:

Quyền tự do trao đổi ý kiến và quan điểm là một trong những điều quý giá nhất về quyền của con người. Mọi công dân có thể, theo đó, có quyền tự do phát biểu, viết và in ấn, nhưng sẽ chịu trách nhiệm về việc lạm dụng quyền tự do này theo luật định.

Điều 19 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, thông qua năm 1948, tuyên bố:

Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia.

Ngày nay, tự do ngôn luận, hoặc tự do biểu đạt, được công nhận trong luật nhân quyền của quốc tế và từng khu vực. Quyền này được quy định tại Điều 19 của Công ước quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị, Điều 10 của Công ước châu Âu về Nhân quyền, Điều 13 của Công ước châu Mỹ về Nhân quyền và Điều 9 của Hiến chương châu Phi về Quyền Con người và Quyền các Dân tộc. Dựa trên lập luận của John Milton tự do ngôn luận được hiểu là một quyền đa diện bao gồm không chỉ quyền biểu đạt, hoặc phổ biến, thông tin và ý kiến, mà còn là ba khía cạnh riêng biệt:

  1. quyền tìm kiếm thông tin và ý kiến;
  2. quyền tiếp nhận thông tin và ý kiến;
  3. quyền truyền đạt thông tin và ý kiến

Các tiêu chuẩn quốc tế, khu vực và quốc gia cũng công nhận rằng tự do ngôn luận, cũng như tự do biểu đạt, bao gồm bất kỳ phương tiện biểu đạt nào, có thể bằng lời nói, bằng văn bản, in ấn, thông qua Internet hoặc thông qua các hình thức nghệ thuật. Điều này có nghĩa là việc bảo vệ quyền tự do ngôn luận như một quyền chính đáng không chỉ bao gồm nội dung, mà còn cả phương tiện biểu đạt.

 

3. Quan hệ của quyền tự do ngôn luận với các quyền khác

Quyền tự do ngôn luận và biểu đạt có liên quan chặt chẽ với các quyền khác. Nó có thể bị hạn chế khi xung đột với các quyền khác (xem Hạn chế với quyền tự do ngôn luận). Quyền tự do biểu đạt cũng liên quan đến quyền được xét xử công bằng và quá trình tố tụng ở tòa án, quá trình này có thể hạn chế tiếp cận với việc tìm kiếm thông tin, hoặc việc xác định cơ hội và phương tiện mà ở đó quyền tự do biểu đạt có thể phát huy tác dụng trong phạm vi tố tụng. Theo nguyên tắc chung, quyền tự do biểu đạt không được xâm phạm quyền riêng tư, cũng như danh dự và uy tín của người khác. Tuy nhiên, sự chỉ trích các gương mặt của công chúng được nới rộng hơn.

Quyền tự do biểu đạt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với truyền thông báo chí vì truyền thông giữ vai trò đặc biệt trong việc mang quyền tự do biểu đạt chung đến cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, tự do báo chí không nhất thiết hỗ trợ cho tự do ngôn luận. Judith Lichtenberg đã chỉ ra các tình huống trong đó tự do báo chí có thể hạn chế quyền tự do ngôn luận. Đơn cử như khi tất cả những người kiểm soát các phương tiện báo chí cùng ngăn chặn thông tin hoặc đàn áp các ý kiến đa chiều vốn là một phần của tự do ngôn luận. Sự hạn chế này có thể được tóm lược trong câu nói nổi tiếng: “Tự do báo chí được đảm bảo chỉ cho những người sở hữu một [tờ báo .ND] (Freedom of the press is guaranteed only to those who own one)”. Lichtenberg lập luận rằng tự do báo chí chỉ đơn giản là một dạng quyền sở hữu được tóm gọn trong nguyên tắc “Không tiền, không tiếng nói (No money, no voice)”.

Quyền tự do ngôn luận thường được nhìn nhận như một quyền thụ động (negative right). Điều này có nghĩa rằng chính phủ về mặt pháp lý bắt buộc không được đưa ra hành động chống lại một người nói nào đó mà chỉ căn cứ trên quan điểm của người nói đó, nhưng không ai bị bắt buộc phải giúp đỡ bất cứ người nói nào công bố quan điểm của họ, và không ai bị yêu cầu phải nghe, đồng ý hay ghi nhận người nói hay quan điểm của người nói.

 

4. Hạn chế quyền tự do ngôn luận

Một số người không coi tự do ngôn luận là quyền tuyệt đối. Hầu hết hệ thống luật pháp của các nước đặt ra giới hạn với quyền tự do ngôn luận, đặc biệt khi quyền tự do ngôn luận xung đột với các quyền và sự bảo vệ [với quyền .ND] khác, chẳng hạn như trong các trường hợp phỉ báng, vu khống, khiêu dâm, tục tĩu, phát ngôn gây thù hằn và sở hữu trí tuệ (libel, slander, pornography, obscenity, fighting words, and intellectual property). Ở Châu Âu, báng bổ bị giới hạn khỏi tự do ngôn luận. Một số tổ chức công cộng nhất định cũng có thể ban hành các chính sách hạn chế quyền tự do ngôn luận, ví dụ như các quy định về ngôn từ tại các trường công lập. Các hạn chế với quyền tự do ngôn luận có thể được đặt ra thông qua sự trừng phạt pháp lý hay qua sự lên án của xã hội hoặc cả hai.

Một số quan điểm không được phép phát ngôn vì nó có thể gây hại cho người khác. Điều này thường bao gồm các phát ngôn vừa sai vừa nguy hiểm, chẳng hạn như hô to: “Cháy rồi!” (khi không cháy) trong rạp hát đông người và gây ra hoảng loạn. Biện minh cho sự giới hạn với tự do ngôn luận thường được tham chiếu đến “nguyên tắc gây hại” và “nguyên tắc xúc phạm”.

Trong tác phẩm Bàn về Tự do, John Stuart Mill lập luận rằng “… phải tồn tại sự tự do đầy đủ nhất để bày tỏ và thảo luận, như một nguyên tắc đạo đức, bất kỳ luận thuyết (doctrine) nào, dẫu cho vô đạo đức, đều có thể được xem xét.”. Mill cho rằng một sự tự do ngôn luận đầy đủ nhất là cần thiết để thúc đẩy các lập luận đến giới hạn của sự hợp lý của chúng, chứ không phải giới hạn của sự khó chịu xã hội (social embarrassment). Tuy nhiên, Mill cũng đưa ra “nguyên tắc gây hại”, khi đặt ra hạn chế cho quyền tự do biểu đạt: “mục đích duy nhất mà quyền lực có thể được thực thi một cách chính đáng đối với bất kỳ thành viên nào của cộng đồng văn minh, ngược lại ý chí của anh ta, là nhằm ngăn chặn tổn hại cho người khác.”

Năm 1985, Joel Feinberg đã giới thiệu một nguyên tắc gọi là “nguyên tắc xúc phạm”. Ông viết: “Có lý do tốt để ủng hộ một lệnh cấm về mặt hình sự được đề xuất (a proposed criminal prohibition) khi nó hầu như chắc chắn sẽ là cách thức hiệu quả để ngăn chặn sự xúc phạm-gây phản cảm nghiêm trọng (mà không gây ra chấn thương hay gây hại) đối với những người không phải là tác nhân, và khi nó hầu như chắc chắn là phương tiện cần thiết để đạt được mục tiêu đó. Do đó, Feinberg lập luận rằng nguyên tắc gây hại đã đặt ra tiêu chuẩn quá cao [cho sự gây hại .ND] và rằng một số dạng thức biểu đạt có thể bị cấm bằng luật chỉ vì chúng gây ra sự xúc phạm-phản cảm. Tuy nhiên, vì xúc phạm ai đó ít nghiêm trọng hơn việc gây tổn hại cho họ, nên các hình phạt áp dụng đối với hành vi gây tổn hại sẽ cao hơn. Trái lại, Mill không ủng hộ sự xử phạt mang tính pháp lý trừ khi nó đặt trên cơ sở nguyên tắc gây hại. Vì mức độ mà mọi người cảm thấy bị xúc phạm-phản cảm là khác nhau ở mỗi người, hoặc có thể là do kết quả của định kiến không được biện minh [tức xấu .ND] nào đó, Feinberd đề xuất rằng một số yếu tố cần phải được tính đến khi áp dụng nguyên tắc xúc phạm. Các yếu tố này bao gồm: mức độ, thời lượng và giá trị xã hội của phát ngôn, mức độ dễ dàng tránh được, các động cơ của người nói, số lượng người bị xúc phạm, cường độ của sự xúc phạm và lợi ích chung của cộng đồng nói chung.

Jasper Doomen lập luận rằng sự tổn hại nên được xác định từ quan điểm của cá nhân công dân, không chỉ giới hạn trong sự tổn hại về mặt vật lý khi mà có những tổn hại là phi vật lý; ông chỉ trích sự phân biệt giữa sự gây hại (harm) và sự xúc phạm (offence) của Feinberg khi sự xúc phạm gây hại là khá hiển nhiên.

Năm 1999, Bernard Harcourt viết về sự sụp đổ của nguyên tắc gây hại: “Ngày nay, cuộc tranh luận này được đặc trưng bởi sự bất hòa khắc nghiệt của các lập luận về sự gây hại cạnh tranh với nhau mà không có cách thức nào để giải quyết. Không còn có một lập luận nào nằm trong cấu trúc của cuộc tranh luận này để giải quyết các tuyên bố cạnh tranh với nhau về sự gây hại. Nguyên tắc gây hại nguyên gốc chưa bao giờ được trang bị để xác định tầm quan trọng tương đối này của các sự gây hại.”

Sự diễn giải cho cả nguyên tắc gây hại và nguyên tắc xúc phạm với giới hạn của tự do ngôn luận đều mang tính tương đối về mặt văn hóa và chính trị. Đơn cử, ở Nga, nguyên tắc gây gại và nguyên tắc xúc phạm đã được sử dụng để biện minh cho Luật tuyên truyền LGBT của Nga, nhằm hạn chế ngôn luận (và hành động) liên quan đến vấn đề LGBT. Nhiều quốc gia châu Âu vốn vẫn tự hào về quyền tự do ngôn luận cũng đặt ra ngoài vòng pháp luật những ngôn luận có thể bị diễn giải là sự phủ nhận với diệt chủng người Do Thái (Holocaust). Các quốc gia này bao gồm: Áo, Bỉ, Cộng hòa Séc, Pháp, Đức, Hungary, Israel, Liechtenstein, Litva, Luxembourg, Hà Lan, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Slovakia,Thụy Sĩ và Romania. Sự phủ nhận cuộc diệt chủng người Armenia cũng bị coi là bất hợp pháp ở một số quốc gia.

Ở một số quốc gia, báng bổ là phạm tội. Đơn cử, ở Áo, việc nói xấu Muhammad, nhà tiên tri của Hồi giáo, không được bảo vệ như là tự do ngôn luận. Trái lại, ở Pháp, luật tự do ngôn luận bảo vệ sự báng bổ và nói xấu Muhammad.

Một số tổ chức công lập cũng có thể ban hành các chính sách hạn chế quyền tự do ngôn luận, chẳng hạn như quy tắc ngôn luận tại các trường học do nhà nước điều hành ở Mỹ.

Ở Hoa Kỳ, nhận định mang tính bước ngoặt về phát ngôn chính trị là ở án lệ Brandenburg v. Ohio (1969), bác bỏ Whitney v. California. Trong Brandenburg, Tối cao pháp viện Hoa Kỳ đã đề cập đến quyền được nói công khai về hành động bạo lực và cách mạng theo nghĩa rộng:

Các quyết định [của chúng tôi] áp dụng nguyên tắc rằng các đảm bảo hiến pháp đối với tự do ngôn luận và tự do báo chí không cho phép nhà nước cấm hoặc không ủng hộ việc vận động sử dụng vũ lực hoặc các hành vi phạm pháp trừ khi những vận động này hướng tới việc kích động hoặc tạo ra các hành động vô pháp và có khả năng kích động hoặc gây ra các hành động như vậy.

Quan điểm trong Brandenburg đã loại bỏ thử nghiệm trước đây về “mối nguy hiểm rõ ràng và tức thời” (clear and present danger) và khiến cho quyền tự do bảo vệ phát ngôn (về chính trị) tại Hoa Kỳ thành gần như tuyệt đối. Phát ngôn thù hận (hate speech) cũng được bảo vệ bởi Tu chính án thứ nhất của Hoa Kì, như đã quyết định trong án lệ R.A.V. v. City of St. Paul, (1992), trong đó Tòa án Tối cao phán quyết rằng ngôn từ kích động thù hận được cho phép, ngoại trừ trong trường hợp bạo lực sắp xảy ra. Xem Tu chính án thứ nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ để biết thêm thông tin chi tiết về quyết định này cũng như bối cảnh lịch sử của nó.

 

5. Quyền dân chủ và quyền tự do ngôn luận

Bản thân tự do ngôn luận được xem là nguyên tắc cơ bản cho một nền dân chủ. Các quy phạm về việc hạn chế quyền tự do ngôn luận có nghĩa là một cuộc tranh luận công khai không thể bị triệt tiêu hoàn toàn ngay cả trong trường hợp khẩn cấp. Một trong những người ủng hộ nổi trội nhất về mối liên hệ giữa tự do ngôn luận và dân chủ chính là Alexander Meiklejohn. Ông lập luận rằng khái niệm về dân chủ là khái niệm tự quản của nhân dân. Để một hệ thống như vậy có thể hoạt động được, một cử tri cần phải được cung cấp đầy đủ thông tin. Để có thể được trang bị các kiến thức đầy đủ, luồng thông tin và ý kiến không được ràng buộc bởi bất cứ điều gì. Theo Meiklejohn, nền dân chủ sẽ không đúng với lý tưởng chủ đạo của nó nếu những người cầm quyền có thể thao túng cử tri bằng cách kìm hãm thông tin và đàn áp các ý kiến chỉ trích. Meiklejohn thừa nhận rằng mong muốn thao túng ý kiến có thể xuất phát từ động cơ hướng đến các lợi ích cho xã hội. Tuy nhiên, ông lập luận rằng bằng cách lựa chọn phương thức thao túng, tự bản thân nó đã trái lại với lý tưởng dân chủ.

Eric Barendt cho rằng biện luận về quyền tự do ngôn luận dựa trên nền tảng dân chủ này “có lẽ là lý thuyết về tự do ngôn luận hấp dẫn nhất và hiển nhiên là hợp thời nhất trong các nền dân chủ Tây phương cận đại”. Thomas I. Emerson đã củng cố thêm cho biện luận này khi ông lập luận rằng tự do ngôn luận giúp mang đến cân bằng giữa sự ổn định và sự thay đổi xã hội. Tự do ngôn luận có tác dụng như một cái “van an toàn” để xả hơi hạ nhiệt khi mọi người bắt đầu có xu hướng chuyển biến thành một cuộc cách mạng. Ông lập luận rằng “Nguyên tắc thảo luận mở là một phương pháp hướng đến một cộng đồng với khả năng thích nghi tốt hơn và đồng thời ổn định hơn, giúp duy trì sự cân bằng mong manh giữa vấn đề chia rẽ tất yếu và sự đồng thuận thiết yếu.” Emerson tiếp tục kiên định rằng “Các phe đối lập có vai trò như một chức năng quan trọng của xã hội để bù đắp hoặc cải thiện tình trạng suy đồi không tránh khỏi của chế độ quan liêu.”

Nghiên cứu được thực hiện bởi dự án Chỉ số Quản trị Toàn cầu tại Ngân hàng Thế giới, cho thấy tự do ngôn luận, và quy trình trách nhiệm giải trình, có tác động đáng kể đến chất lượng quản trị của một quốc gia. “Tiếng nói và Trách nhiệm Giải trình” của một quốc gia, được định nghĩa là “mức độ công dân của một quốc gia có thể tham gia lựa chọn chính phủ của họ, cũng như tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí” là một trong sáu khía cạnh quản trị mà dự án Chỉ số Quản trị Toàn cầu dùng để đo lường cho hơn 200 quốc gia. Trong bối cảnh này, điều quan trọng là các cơ quan phát triển phải tạo cơ sở hỗ trợ hiệu quả cho báo chí tự do ở các nước đang phát triển.

Richard Moon đưa ra một lập luận rằng giá trị của tự do ngôn luận và tự do biểu đạt nằm ở các hoạt động tương tác xã hội. Moon viết rằng “bằng cách giao tiếp, một cá nhân sẽ xây dựng các mối quan hệ và liên kết với những người khác, như gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, hội thánh và những người đồng hương. Bằng cách tham gia thảo luận với những người khác, một cá nhân sẽ góp phần phát triển kiến thức cũng như hướng về cộng đồng.”

Luật LVN Group (tổng hợp & phân tích từ các nguồn trên internet)