Số tiền được chuyển vào tài khoản riêng của người đó. Từ khi thành lập công ty, mọi chi phí phát sinh đều là do bạn tôi bỏ tiền túi ra chi trả, người đó không chi bất kỳ khoản nào.

Sau đó, anh ta nói đã bán xe của mình dùng số tiền đó và số tiền bạn tôi đưa đi đặt cọc khách hàng nhưng không thấy giấy tờ chứng minh gì. Hôm sau, anh ta nói do không đủ điều kiện nên hợp đồng bị hủy và nói là được rút ra 50% số tiền cọc. Tuy nhiên, cho đến bây giờ, anh ta nói vẫn chưa lấy lại được tiền (tất cả đều không có giấy tờ chứng minh). Bây giờ, bạn tôi điện thoại hay nhắn tin anh ta đều không trả lời và tắt máy. 

Xin hỏi Luật sư, có thể khởi kiện anh ta với tội danh chiếm đoạt tài sản được không? Bạn tôi chỉ có giấy chuyển tiền ngân hàng cho anh ta vậy bạn tôi có thể khởi kiện anh ta đòi lại số tiền đó được không? Xin nhờ Luật sư giải đáp sớm giúp tôi. Xin cám ơn Luật sư!

Câu hỏi được biên tập từ chuyên mục tư vấn pháp luật dân sự  của công ty Luật Minh Khuê.

>> Luật sư tư vấn trực tiếp gọi: 1900.0191

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến công ty Luật LVN Group. Chúng tôi xin giải đáp các thắc mắc của bạn như sau:

I. Cơ sở pháp lý

Bộ Luật Hình sự 1999

Bộ Luật Dân sự 2005

Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2003

II. Nội dung phân tích

Bạn của bạn đưa tiền cho người khác để người đó sử dụng trong việc thành lập, quản lý, vận hành công ty của bạn bạn. Như vậy, việc sở hữu số tiền 70 triệu đồng của người kia dựa trên căn cứ ủy quyền của chủ sở hữu.

Khoản 1 Điều 173 Bộ Luật Dân sự quy định: “Người không phải là chủ sở hữu chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình theo thoả thuận với chủ sở hữu tài sản đó hoặc theo quy định của pháp luật.” Vì vậy, tùy thuộc vào nội dung ủy quyền giữa bạn của bạn và người quen kia mà người đó được sử dụng và quản lí số tiền 70 triệu trong phạm vi thỏa thuận.

Đối với vấn đề bạn hỏi có thể khởi kiện vụ án hình sự hay không khi có dấu hiệu người kia đang lừa dối để chiếm đoạt tài sản thuộc sở hữu của bạn bạn, chúng tôi cho rằng hành vi của người đó có dấu hiệu phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chứ không phải là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như bạn hỏi. Khoản 1 Điều 140 Bộ Luật Hình sự quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:

” Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

  a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

  b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó  vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.”

Tuy nhiên bạn cần xác định thêm hành vi của người này tại thời điểm này, sau khi tắt máy và không liên lạc được người này có hành vi cố tình trốn tránh nữa hay không.

Khoản 1 Điều 38 Bộ Luật Tố tụng Hình sự quy định: “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra.” Bạn của bạn có quyền yêu cầu tòa án khởi tố người kia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Trên đây là ý kiến tư vấn của chúng tôi về vấn đề mà bạn đang quan tâm. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do khách hàng  cung cấp. Mục đích đưa ra bản tư vấn này là để các cá nhân, tổ chức tham khảo.

Trường hợp trong bản tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong bản tư vấn khiến quý khách chưa hiểu hết vấn đề, rất mong nhận được phản ánh của quý khách tới địa chỉ email Tư vấn pháp luật dân sự miễn phí qua Email hoặc tổng đài tư vấn trực tuyến 1900.0191. Chúng tôi sẵn sàng giải đáp.

Trân trọng ./.