1. Khái quát vai trò của thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tối cao

Vai trò của thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tối cao với tư cách là nguồn của hệ thống pháp luật hình sự nưóc nhà trong 25 năm trước khi thông qua Bộ luật Hình sự đầu tiên (1960-1985).

Việc nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam trong thời kỳ 25 năm từ sau khi thực hiện Luật Tổ chức Tòa án nhân dân vào năm 1960 ở nước ta đến trước khi thông qua Bộ luật Hình sự đầu tiên của đất nước đã cho thấy, các luận điểm trong những giải thích (hướng dẫn) thông nhất có tính chất chỉ đạo của Tòa án nhân dân tối cao về áp dụng pháp luật hình sự đã thể hiện bản chất pháp lý của chúng với tư cách là một trong các nguồn rất quan trọng của pháp luật hình sự nước ta vì các luận điểm này không chỉ là những căn cứ pháp lý chủ yếu của Nhà nước trong quá trình triển khai công cuộc phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, mà còn là những nền tảng quan trọng để hình thành nên các chế định và các quy phạm của Bộ luật Hình sự (năm 1985) sau này.

Do đó, dưới đây sẽ lần lượt xem xét và phân tích khoa học các luận điểm này trong những giải thích (hướng dẫn) có tính chất chỉ đạo của Tòa án nhân dân tốỉ cao với tư cách là cơ quan thực tiễn xét xử cao nhất của đất nưốc vì trong các văn bản do Tòa án nhân dân tối cao ban hành đã đề cập các chế định Phần chung, cũng như các quy phạm Phần riêng pháp luật hình sự Việt Nam trước pháp điển hóa lần thứ nhất (1985) và sẽ được đề cập tại các mục dưới đây.

2. Vai trò thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tối cao trước khi thông qua Bộ luật Hình sự đầu tiên (1960-1985)

Vai trò của thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tối cao trong việc hình thành nên các quy phạm của hệ thống Phần chung pháp luật hình sự Việt Nam trong 25 năm trước khi thông qua Bộ luật Hình sự đầu tiên (1960-1985) có thể nhận thấy rất rõ khi phân tích các văn bản có chứa những giải thích (hướng dẫn) thống nhất có tính chất chỉ đạo của Tòa án nhân dân tối cao để áp dụng các quy phạm trong hệ thống Phần chung pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ này.

Cũng chính vì chính bằng các văn bản của Tòa án nhân dân tối cao trên cơ sở tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn (áp dụng) thống nhất pháp luật đã góp phần xây dựng, hình thành nên và phát triển nhiều chê định và quy phạm Phần chung pháp luật hình sự Việt Nam.

3. Luận điểm cơ bản để minh chứng cho vai trò ở mục 2

Dưới đây là các luận điểm cơ bản để minh chứng cụ thể cho vai trò ở mục 2 phía trên.

– Các luận điểm về chính sách, đường lối xử lý hình sự (nói chung) và đường lối xử lý hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội (nói riêng) đã đề cập và hướng dẫn trong một số bản Báo cáo tổng kết công tác hằng năm tại các Hội nghị tổng kết công tác ngành những năm 60-70 của Tòa án nhân dân tối cao và trong Bản chuyên đề sơ kết kinh nghiệm “Về thực tiễn xét xử các vụ án liên quan đến người chưa thành niên phạm tội” (kèm theo Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 của Tòa án nhân dân tối cao).

– Các luận điểm về các dạng của lỗi cố ý, tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm và các giai đoạn thực hiện tội phạm đó là trong Bản tổng kết chuyên đề “Về thực tiễn xét xử loại tội giết người”, số 452/HS-2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao.

– Các luận điểm về chế định đồng phạm là trong Chỉ thị số 1 ngày 14/3/1963 của Tòa án nhân dân tối cao “Về xử lý tội giết trẻ sơ sinh”, Báo cáo tổng kết công tác năm 1963 của Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo bổ sung của Tòa hình sự I “Về công tác trấn áp phản cách mạng” tại Hội nghị tổng kết công tác năm 1968 của Tòa án nhân dân tối cao, Dự thảo Thông tư ngày 16/3/1973 của liên Bộ Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tôì cao, Bộ Công an hướng dẫn “Về nhận thức thống nhất đôì với hai Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản” và Lời tổng kết Hội nghị công tác năm 1971 của Tòa án nhân dân tối cao.

– Các luận điểm về các dạng của lỗi vô ý: Trong Dự thảo Thông tư số ngày 16/3/1973 của liên Bộ Công an Tòa án nhân dân tốì cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng như trong Bản tổng kết số 10/NCPL ngày 08/01/1968 của Tòa án nhân dân tôì cao “Về hướng dẫn đường lối xử lý tội thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm quy tắc an toàn lao động, gây thiệt hại nghiêm trọng”.

– Các luận điểm về chế định phòng vệ chính đáng là trong Bản tổng kết chuyên đề “Về thực tiễn xét xử loại tội giết người” số 452/HS-2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tốỉ cao và trong Chỉ thị số 07/HS-2 ngày 22/12/1983 của Tòa án nhân dân tối cao “Về thực tiễn xét xử các tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe công dân do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ”.

– Các luận điểm về một loạt các vấn đề liên quan Phần chung pháp luật hình sự (như: chế định nhiều tội phạm, chế định tự nguyện nửa chừng chấm dứt tội phạm, danh mục mẫu các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự,….) – trong Bản tổng kết về thực tiễn vận dụng các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ (kèm theo Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 của Tòa án nhân dân tối cao)1 với 4 phần, cụ thể là: Phần I là Đặc điểm ý nghĩa và tầm quan trọng của các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ; Phần II về Các tình tiết tăng nặng (với sự phân chia thành 3 nhóm tình tiết tăng nặng cụ thể như: a) thuộc về mặt khách quan của tội phạm, b) thuộc về mặt chủ quan của tội phạm và c) thuộc về nhân thân người phạm tội); Phần III đó là Các tình tiết giảm nhẹ (cũng với sự phân chia thành ba nhóm tương ứng cụ thể như trên) và; Phần IV về Vận dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để lượng hình.

– Các luận điểm về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự trong Lời tổng kết tại Hội nghị tổng kết công tác của Tòa án nhân dân tối cao năm 1974.

– Các luận điểm về mục đích của hình phạt là trong Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao về công tác của ngành Tòa án năm 1959 và trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (năm 1960) ở Điều l.

– Các luận điểm về các chế định nhỏ trong hệ thống các biện pháp tha miễn (với tư cách là một chế định lớn) như:

+ “Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt quy định trong Báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao về công tác của ngành Tòa án năm 1972”.

– Các luận điểm về các điều kiện và thủ tục giảm án tha tù trước thòi hạn có điều kiện – trong Thông tư liên tịch số 73-TT/LB ngày 11/8/1959 của liên Bộ Công an – Bộ Tư pháp – Tòa án nhân dân tô! cao – Viện Công tố Trung ương “Về điều kiện và thủ tục xử tha tù trước kỳ hạn” và tiếp theo sau đó một năm, đã được giải thích rõ (cụ thể hóa) trong Thông tư số 1552-NC/TH ngày 11/8/1960 của Tòa án nhân dân tối cao “Về việc giảm án tha tù trưốc thời hạn”.

– Các luận điểm về chế định án treo trong Thông tư số’ 2380/NCPL ngày 01/12/1961 của Tòa án nhân dân tối cao “Về việc áp dụng án treo”. Văn bản này đã được Tòa án nhân dân tối cao soạn thảo trên cơ sở tổng kết thực tiễn xét xử để đề ra một số phương hướng thống nhất mang tính toàn diện về chế định án treo của pháp luật hình sự Việt Nam vì nó đã đưa ra những giải thích (hướng dẫn) và làm sáng tỏ bốn nhóm vấn đề cơ bản như: 1) Ý nghĩa của chế định án treo; 2) Điều kiện áp dụng án treo; 3) Hiệu lực pháp lý của án treo và; 4) Thủ tục áp dụng án treo,…

4. Vai trò của thực tiễn xét xử trước khi thông qua Bộ luật Hình sự đầu tiên (1960-1985)

Cụ thể vai trò này là vai trò của thực tiễn xét xử trong việc hình thành nên các quy phạm Phần riêng pháp luật hình sự trong 25 năm trước khi thông qua Bộ luật Hình sự đầu tiên (1960-1985).

Ta có thể nhận thấy rất rõ khi phân tích các văn bản có chứa những giải thích (hướng dẫn) thống nhất có tính chất chỉ đạo của Tòa án nhân dân tối cao để áp dụng các quy phạm Phần riêng pháp luật hình sự nước nhà thời kỳ này. Nó được thể hiện ở các mức độ khác nhau qua các luận điểm trong rất nhiều văn bản của Tòa án nhân dân tối cao trên cơ sỏ tổng kết thực tiễn xét xử để đưa ra đường lối xử lý về hình sự đối vối các loại tội phạm cụ thể (mà trong đó đôi khi còn bao gồm cả việc xây dựng một số cấu thành tội phạm cụ thể mới và quy định cả một số chế tài pháp lý hình sự tương ứng) thời kỳ này (1960-1985),

5. Minh chứng cho vai trò ở mục 4

Với vai trò ở mục 4 về: Vai trò này là vai trò của thực tiễn xét xử trong việc hình thành nên các quy phạm Phần riêng pháp luật hình sự trong 25 năm trước khi thông qua Bộ luật Hình sự đầu tiên (1960-1985), ta có các chúng chứng chẳng hạn như:

– Các luận điểm về các tội xâm phạm an ninh quốc gia (mà trước đây thường gọi là các tội phản cách mạng) trong Báo cáo tổng kết Hội nghị công tác ngành Tòa án các năm 1976, năm 1977.

– Các luận điểm về các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và các tội phạm trong lĩnh vực kinh tế, tài chính – Trong một loạt văn bản của thực tiễn xét xử thời kỳ này như: a) Dự thảo Thông tư ngày 16/3/1973 của liên Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về hướng dẫn thông nhất nhận thức hai Pháp lệnh vể trừng trị các tội xâm phạm tài sản, Phần về tài sản xã hội chủ nghĩa (kèm theo Công văn số 213/NCPL ngày 05/5/1973 của Tòa án nhân dân tối cao); b) Lời tổng kết Hội nghị công tác năm 1971 của Tòa án nhân dân tối cao; c) Báo cáo tổng kết công tác năm 1972 của Tòa án nhân dân tồi cao; d) Chỉ thị sô 693/ HS-2 ngày 01/6/1964 “Về hướng dẫn đường lối xử lý các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa”; đ) Bản tổng kết hưống dẫn đường lối xử lý tội đầu cơ (kèm theo Công văn số 107/HS-2 ngày 10/2/1969 của Tòa án nhân dân tối cao); e) Chỉ thị số 9/NCPL ngày 23/12/1966 của Tòa án nhân dân tối cao “Về hướng dẫn đường lối trong công tác đấu tranh chống tệ nấu rượu trái phép”; Bản tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao “Về thực tiễn xét xử các loại tội xâm phạm đến tài nguyên rừng” (kèm theo Công văn số 27/TATC ngày 31/3/1975 của Tòa án nhân dân tôì cao); g) Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1974 và Lòi tổng kết Hội nghị công tác ngành Tòa án năm 1977;…

– Các luận điểm về các tội xâm phạm nhân thân (tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm), tài sản riêng, cũng như các quyền và tự do của con người và của công dân dược quy định trong một số văn bản của thực tiễn xét xử thời kỳ này như:

+ Bản chuyên đề tổng kết về thực tiễn xét xử loại tội giết người (kèm theo Công văn sô’ 452/HS-2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tôì cao);

+ Báo cáo tổng kết công tác năm 1962 của Tòa án nhân dân tối cao, Báo cáo của Tòa Hình sự, Tòa án nhân dân tôì cao tại Hội nghị tổng kết công tác toàn ngành năm 1967, Bản tổng kết số 10/NCPL ngày 08/01/1968 của Tòa án nhân dân tối cao “Về hướng dẫn đường lối xử lý tội thiếu trách nhiệm vi phạm quy tắc an toàn lao động, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản”;

+ Lời tổng kết Hội nghị công tác ngành Tòa án các năm 1976, 1977 và Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án năm 1977, cũng như Bản tổng kết thực tiễn xét xử về hành vi gây tai nạn làm chết người hoặc gây thương tích nặng do cố ý trong khi đi săn bắn;

+ Báo cáo tổng kết và hướng dẫn về đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội phạm khác về mặt tình dục (kèm theo Công văn số 329/HS-2 ngày 11/5/1967 của Tòa án nhân dân tốì cao), Báo cáo và Lời tổng kết Hội nghị tổng kết công tác năm 1968 của Tòa án nhân dân tôì cao; + Báo cáo tổng kết công tác năm 1966 của Tòa án nhân dân tối cao, Lời tổng kết Hội nghị tổng kết công tác năm 1967 của Tòa án nhân dân tối cao và Bản chuyên đề sơ kết công tác về hình sự đấu tranh chông những hành vi vi phạm quyền dân chủ của nhân dân (kèm theo Công văn số 582/HS-2 ngày 18/11/1972 của Tòa án nhân dân tôì cao);

+ Chỉ thị số 164/NCPL ngày 25/9/1972 của Tòa án nhân dân tối cao hưống dẫn thi hành Điều lệnh của Hội đồng Chính phủ “Về nghĩa vụ lao động trong thời chiến”;

+ Dự thảo Thông tư ngày 16/3/1973 của liên Bộ Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Công an về hướng dẫn thống nhất nhận thức hai Pháp lệnh về trừng trị các tội xâm phạm tài sản — Phần về tài sản riêng của công dân (kèm theo Công văn SỐ213/NCPL ngày 05/5/1973 của Tòa án nhân dân tối cao về việc rút kinh nghiệm một vụ án cho vay lãi nặng;…

– Các luận điểm về các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình quy định trong Thông tư số 332/NCPL ngày 04/4/1966 của Tòa án nhân dân tối cao “Về hướng dẫn việc xử lý hình sự những hành vi vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình”;

– Và một loạt các luận điểm về các tội phạm về cờ bạc quy định trong Báo cáo tổng kết công tác 4 năm (1965-1968) và Bản tổng kết số 9/NCPL ngày 08/01/1968 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn đường lối xét xử về tội cờ bạc;…

Trân trọng!