1. Vấn đề ghi âm, ghi hình có âm thanh trong hoạt động điều tra

Đối với quá trình điều tra, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bên cạnh việc ghi biên bản hoạt động điều tra thì trong những trường hợp cụ thể bắt buộc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng của Cơ quan điều tra, cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tiến hành đồng thời giữa việc lập biên bản với việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, đây là yêu cầu bắt buộc theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đồng thời cũng quy định việc sử dụng nó là nguồn chứng cứ trong một số trường hợp cần thiết của quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Theo chúng tôi đây là một bước tiến lớn trong quá trình xây dựng Bộ luật Tố tụng hình sự, để từng bước hòa mình vào xu hướng chung của các nước văn minh trên thế giới về việc áp dụng các tiến bộ trong khoa học công nghệ hiện đại phục vụ công tác điều tra, truy tố và xét xử. Đáp ứng yêu cầu của hệ thống các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử nhằm bảo đảm mọi hoạt động tố tụng phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện và đầy đủ, đồng thời bảo đảm tính công khai minh bạch trong các hoạt động tố tụng hình sự, góp phần bảo đảm tính thượng tôn pháp luật để việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người đúng tội và đúng pháp luật, tránh bức cung, dùng nhục hình, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, tránh oan sai xảy ra. Đồng thời tránh được những tai tiếng mà bấy lâu nay ở đâu đó vẫn nghi ngờ về việc một số bị can, bị cáo khi phản cung chối tội đều nại ra lý do trong quá trình điều tra bị Điều tra viên bức cung hoặc dùng nhục hình.

2. Ghi âm, ghi hình có âm thanh trong quá trình hỏi cung bị can

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định rất chặt chẽ việc Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tổ chức ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh cho đến khi các cơ quan có thẩm quyền sử dụng nguồn chứng cứ đã ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh kết hợp với các nguồn chứng cứ khác trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử để chứng minh hành vi phạm tội và khẳng định có hay không có việc bức cung hoặc dùng nhục hình trong quá trình điều tra nhằm giải quyết vụ án bảo đảm tính khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Về việc tổ chức ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định bắt buộc về việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Điều luật cũng quy định rất chặt chẽ việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Điều 183. Hỏi cung bị can
1. Việc hỏi cung bị can do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó. Trước khi hỏi cung bị can, Điều tra viên phải thông báo cho Kiểm sát viên và người bào chữa thời gian, địa điểm hỏi cung. Khi xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên tham gia việc hỏi cung bị can.
2. Trước khi tiến hành hỏi cung lần đầu, Điều tra viên phải giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 60 của Bộ luật này. Việc này phải ghi vào biên bản.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can thì hỏi riêng từng người và không để họ tiếp xúc với nhau. Có thể cho bị can viết bản tự khai của mình.
3. Không hỏi cung bị can vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn được nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
4. Kiểm sát viên hỏi cung bị can trong trường hợp bị can kêu oan, khiếu nại hoạt động điều tra hoặc có căn cứ xác định việc điều tra vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp khác khi xét thấy cần thiết. Việc Kiểm sát viên hỏi cung bị can được tiến hành theo quy định tại Điều này.
5. Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên bức cung, dùng nhục hình đối với bị can thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.
6. Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

3. Ghi âm ghi hình có âm thanh và nguyên tắc suy đoán vô tội

Quá trình ghi âm, ghi hình có âm thanh còn nhằm mục đích tuân thủ nguyên tắc suy đoán vô tội như Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định:
Điều 13. Suy đoán vô tội
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.

4. Vai trò của việc tổ chức ghi âm, ghi hình có âm thanh

Tổ chức ghi âm ghi hình có âm thanh góp phần không nhỏ vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án, đó là những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự, như Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định, cụ thể đó là: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; Nguyên nhân và điều kiện phạm tội; Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
Điều 85. Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự
Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh:
1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;
2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;
3. Những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;
4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
5. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội;
6. Những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
Việc tiến hành tổ chức thực hiện quá trình ghi âm, ghi hình có âm thanh tại cơ sở giam giữ đối với bị can đang bị tạm giam hoặc đối với bị can được tại ngoại hoặc khi có yêu cầu của bị can ở ngoài cơ sở giam giữ là việc làm đòi hỏi có tính đồng bộ và tuân thủ theo đúng trình tự, thủ tục giữa cán bộ kỹ thuật hình sự có chuyên môn trực tiếp quản lý hệ thống thiết bị kỹ thuật ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh với Điều tra viên và cán bộ điều tra, bởi vì chỉ cần một sơ suất nhỏ trong trường hợp đang hỏi cung, lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân mà thiết bị ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh xảy ra sự cố kỹ thuật không thể thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh thì phải phải kịp thời xử lý dừng ngay buổi hỏi cung, lấy lời khai. Việc này ghi rõ trong biên bản, có xác nhận của cán bộ chuyên môn. Rồi việc sử dụng, bảo quản, chuyển giao, lưu trữ dữ liệu ghi âm, ghi hình có âm thanh phải tuân theo quy trình chặt chẽ để phục vụ tốt việc điều tra, truy tố, xét xử.

5. Hoạt động sau khi có kết quả ghi âm, ghi hình có âm thanh

Sau khi có kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh khi hỏi cung bị can, hay lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bên cạnh việc sử dụng các biên bản hoạt động điều tra đã được lập theo đúng quy định tại Điều 133 Bộ luật Tố tụng hình sự để phục vụ cho việc giải quyết vụ án, đồng thời cũng có thể còn sử dụng các tài liệu này để phục vụ cho công tác điều tra, khám phá tội phạm, chẳng hạn có thể sử dụng dữ liệu ghi âm có âm thanh phục vụ cho hoạt động nhận biết giọng nói theo quy định tại Điều 191 Bộ luật Tố tụng hình sự, hoặc sử dụng dữ liệu dã được ghi bằng hình ảnh phục vụ cho hoạt động nhận dạng như Điều 190 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định.
Khi việc điều tra của Cơ quan điều tra hoặc cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã hoàn tất phần việc của mình, thì Cơ quan điều tra sẽ ban hành bản kết luận điều tra kèm theo hồ sơ vụ án chuyển sang Viện kiểm sát đề nghị truy tố. Trong khái niệm hồ sơ theo Điều 131 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định bao gồm có: Lệnh, quyết định, yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; Các biên bản tố tụng do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát lập; Các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án; Các chứng cứ, tài liệu do Viện kiểm sát, Tòa án thu thập trong giai đoạn truy tố, xét xử phải đưa vào hồ sơ vụ án. Hồ sơ vụ án phải có thống kê tài liệu kèm theo. Thống kê tài liệu ghi rõ tên tài liệu, số bút lục và đặc điểm của tài liệu (nếu có). Trường hợp có bổ sung tài liệu vào hồ sơ vụ án thì phải có thống kê tài liệu bổ sung. Hồ sơ vụ án phải được quản lý, lưu giữ, sử dụng theo quy định của pháp luật. Như vậy nội dung ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh được hiểu là một trong các tài liệu liên quan trong hồ sơ vụ án.

6. Sử dụng kết quả ghi âm, ghi hình và tổ chức ghi âm ghi hình của Viện Kiểm sát

Sau khi Viện kiểm sát nhận hồ sơ của Cơ quan điều tra và lập biên bản giao, nhận hồ sơ theo đúng trình tự thủ tục, cũng là lúc Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình khi được phân công, đó là kiểm tra hồ sơ tài liệu liên quan đến vụ án, trong đó có nội dung liên quan đến việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Công việc của Viện kiểm sát thực hiện các hoạt động để bảo đảm tính khách quan của các chứng cứ đã thu thập được bằng cách đối chiếu so sánh các biên bản hoạt động điều tra với nội dung đã ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, một mặt kiểm tra tính chính xác trung thực của thông tin có đúng như nội dung đã ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh hay không, mặt khác kiểm tra xem trong quá trình lấy lời khai của Điều tra viên, cán bộ điều tra đối với bị can, người đại diện thep pháp luật của pháp nhân có bức cung hoặc dùng nhục hình hay không để từ đó có hướng xử lý kịp thời đáp ứng yêu cầu giải quyết đối với vụ án và xử lý khi có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình hỏi cung bị can, hỏi người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Làm tốt điều này giúp Kiểm sát viên vững tin hơn khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại Tòa án. Bởi lẽ trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa giữa Kiểm sát viên với bị cáo, người bào chữa hoặc với những người tham gia tố tụng khác cũng là lúc Hội đồng xét xử kiểm tra, đánh giá quá trình thu thập chứng cứ có bảo đảm tính khách quan tính liên quan và tính hợp pháp hay không.
Trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra, Kiểm sát viên khi thực hiện việc hỏi cung bị can khi hồ sơ Cơ quan điều tra đã hoàn tất chuyển sang Viện kiểm sát cũng phải tuân thủ theo đúng quy định về việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nhất là đối với những trường hợp khi hỏi cung bị can tại ngoại, với đòi hỏi về kỹ thuật cũng tương tự như đối với hoạt động ghi âm, ghi hình nói chung, nếu được thực hiện tại phòng hỏi cung của trụ sở Viện kiểm sát và tài liệu về ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh của Kiểm sát viên phải được đưa vào hồ sơ trong quá trình giải quyết vụ án theo quy định.