1. Thực trạng đăng ký và sử dụng Nhãn hiệu ở Việt Nam
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, Nhãn hiệu (đôi khi còn gọi là “Thương hiệu”) như chúng ta đều biết được coi là một trong những tài sản có giá trị của một doanh nghiệp. Nhiều người còn ví von rằng hàng hoá có Thương hiệu cũng giống như “tấm giấy thông hành” vừa giúp họ dễ dàng xâm nhập vào thị trường lại vừa giảm được nhiều chi phí quảng cáo, marketing.
Thực vậy, Nhãn hiệu nếu xét theo khía cạnh kinh tế thì nó đã vượt quá xa khái niệm pháp lý của nó là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá/dịch vụ được sản xuất hoặc cung cấp bởi các nhà sản xuất hoặc nhà cung ứng dịch vụ khác nhau.
Tuy vậy, trong bối cảnh thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay việc xây dựng, phát triển mới cũng như giành giật từng chút thị phần đã và đang trở nên ngày càng khó khăn hơn. Trong bối cảnh đó, Nhãn hiệu của doanh nghiệp có thể bị rơi vào trong những nguy cơ rủi ro pháp lý. Những rủi ro này có thể là Nhãn hiệu đó bị doanh nghiệp đối thủ khác nộp đơn đăng ký nhãn hiệu trước hoặc đã được bảo hộ trước đó do nộp đơn sớm hơn và khi đó chính doanh nghiệp – chủ sở hữu thực sự của Nhãn hiệu lại phải đối mặt với vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến Nhãn hiệu của chính mình do đối thủ cạnh tranh khởi xướng. Một rủi ro khác có thể là Nhãn hiệu của doanh nghiệp bạn bị từ chối bảo hộ vì tương tự gây nhầm lẫn với Nhãn hiệu khác đã đăng ký trước của người khác (“Nhãn hiệu đối chứng”), v.v,…
Luật sư tư vấn bảo hộ nhãn hiệu quyền tại Việt Nam1900.0191
Mặc dù vậy, rủi ro có thể bạn gặp phải không phải là không có cách để giải quyết. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ xin tập trung phân tích một trong cách thức yêu cầu chấm dứt hiệu lực Nhãn hiệu đối chứng trên cơ sở nó không được sử dụng trong 5 năm liên tục.(1)
Từ sự thật không có nhiều Nhãn hiệu đăng ký được nhìn thấy trên thị trường!
Hàng năm số lượng rất lớn đơn đăng ký nhãn hiệu mới được nộp ở Việt Nam, bao gồm đơn đăng ký nhãn hiệu nộp trực tiếp (“đơn quốc gia”) tại Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) hoặc tại các Văn phòng đại diện của Cục SHTT, và đơn đăng ký quốc tế nhãn hiệu (“đơn quốc tế”) theo hệ thống Madrid được nộp tại Văn phòng quốc tế của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) trước khi chuyển về Việt Nam và được tiếp nhận bởi Cục SHTT. Số lượng đơn đăng ký được ghi nhận ngày càng tăng tính theo hàng năm, đạt mức tăng trung bình khoảng gần 20%. Theo số liệu thống kê của Cục SHTT(2) trong năm 2007 có tổng số 27.110 đơn quốc gia và 4.920 đơn quốc tế. Số lượng đơn quốc gia được nộp trong các năm 2003, 2004, 2005 và 2006 tương ứng là: 12.135, 14.916, 18.018 và 23.058. Như vậy tính ra số lượng đơn đăng ký mới của mỗi năm sau đều tăng hơn so với năm trước liền kề gần 20%, cá biệt tỷ lệ này đạt gần 30% của năm 2006 so với năm 2005. Riêng đối với đơn quốc tế, số lượng đơn quốc tế mới chỉ định Việt Nam năm 2007 tăng hơn khoảng gần 900 đơn đạt mức tăng 21%.
Tổng kết từ năm 1982 đến hết năm 2007, tổng số đơn quốc gia là 160.421 đơn, trong đó Cục SHTT đã cấp 90.920 Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. Từ năm 1949 (Việt Nam là thành viên của Madrid Agreement) và từ 11.7.2006 (Việt Nam trở thành thành viên của Madrid Protocol) đến ngày 27/7/2008, đã có tổng cộng 60.719 nhãn hiệu đăng ký quốc tế chỉ định hoặc mở rộng lãnh thổ vào Việt Nam.
Như vậy, bằng một vài số liệu trên chúng ta có thể nhận thấy số lượng đơn quốc gia và đơn quốc tế đạt con số rất lớn. Vậy nếu xét dưới khía cạnh sử dụng thực tế, phải chăng tất cả các nhãn hiệu đã đăng ký đều đang sử dụng tại Việt Nam? Câu trả lời là không. Mặc dù chưa có một thống kê hay điều tra chính thức nào về thực trạng sử dụng Nhãn hiệu đã đăng ký ở Việt Nam, tuy nhiên, theo kinh nghiệm của chúng tôi chỉ có khoảng 15-20% số lượng nhãn hiệu đã đăng ký là đang được sử dụng.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng một số lượng lớn Nhãn hiệu đăng ký lại chưa bao giờ được nhìn thấy trên thị trường có thể được lý giải bằng nhiều lý do rất đa dạng, chẳng hạn như một số chủ thể muốn đăng ký nhãn hiệu để đầu cơ, để ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh khác, để giữ chỗ cho một dự án đầu tư vào Việt Nam mà khả năng kiếm lợi nhuận có thể chưa thực sự rõ ràng, chủ sở hữu đã bị phá sản, không còn tồn tại hoặc thu hẹp thị trường, v.v…
Cho đến khi đăng ký Nhãn hiệu mới gặp rào cản
Vì có nhu cầu khẳng định chủ quyền của mình đối với Nhãn hiệu mà có thể bạn đã mất nhiều công sức, tiền bạc và thời gian tạo dựng, bạn đã quyết định nộp đơn đăng ký bảo hộ. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau bạn nhận được quyết định từ chối bảo hộ của Cục SHTT nêu rõ Nhãn hiệu của bạn bị từ chối bảo hộ với lý do nhãn hiệu này xung đột với nhãn hiệu của người khác đã đăng ký từ trước (“nhãn hiệu đối chứng”). Giả sử bạn hoàn toàn không biết về nhãn hiệu đối chứng thì điều này có thể đã thực sự gây bất ngờ cho bạn, khiến bạn phải suy nghĩ liệu có nên tiếp tục sử dụng hay dừng việc sử dụng Nhãn hiệu đang có uy tín tốt của mình để tránh nguy cơ bị kiện do xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp hay không?
2. Liệu có thể yêu cầu chấm dứt hiệu lực của Nhãn hiệu đối chứng?
Như chúng tôi đã nói ở phần trên, hầu hết các nhãn hiệu đối chứng chỉ có trong cơ sở dữ liệu nhãn hiệu quốc gia mà có thể chưa bao giờ được sử dụng trong thương mại. Trong khi đó vấn đề nghĩa vụ sử dụng nhãn hiệu đã đăng ký đối với chủ sở hữu đã được quy định đầy đủ trong Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 của Việt Nam. Điểm d, khoản 1, điều 95 quy định nếu chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người khác được chủ sở hữu cho phép sử dụng nhãn hiệu mà không sử dụng nhãn hiệu đã đăng ký trong thời hạn 5 năm liên tục thì nhãn hiệu đã đăng ký đó có thể bị chấm dứt hiệu lực bởi đơn yêu cầu chấm dứt hiệu lực được nộp bởi bất kỳ bên thứ 3. Quy định này chỉ có 2 ngoại lệ: một là, chủ sở hữu Nhãn hiệu có nguy cơ bị chấm dứt hiệu lực chứng minh được rằng nhãn hiệu đã đăng ký không sử dụng là do có lý do chính đáng, và hai là, nhãn hiệu đó đã được bắt đầu sử dụng hoặc bắt đầu sử dụng lại trước ít nhất 3 tháng tính đến ngày có yêu cầu chấm dứt hiệu lực của bên thứ 3.(3)
Để xác định được liệu chủ sở hữu nhãn hiệu đối chứng có sử dụng nhãn hiệu đối chứng hay không trước hết bạn cần phải hiểu khái niệm “sử dụng” trong Luật Sở hữu trí tuệ. Theo điểm 5, điều 124 của Luật này thì sử dụng nhãn hiệu phải được hiểu là chủ sở hữu hoặc người được sử dụng hợp pháp thực hiện các hành vi như: gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện kinh doanh, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh; lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hoá mang nhãn hiệu được bảo hộ; nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ.
Tiếp đến, để chứng minh chủ sở hữu nhãn hiệu đối chứng không sử dụng nhãn hiệu trong 5 năm liên tục, bạn cần phải thuê công ty chuyên nghiệp về cung cấp dịch vụ điều tra thị trường để xác định chủ sở hữu nhãn hiệu không thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam bất kỳ hành vi nào thuộc khái niệm “sử dụng” đã nêu trên đây. Nếu kết quả điều tra cho thấy không có nhãn hiệu đối chứng nào như đã yêu cầu điều tra được xác định là hiện đang sử dụng hoặc mặc dù đã sử dụng nhưng đã ngừng sử dụng 5 năm liên tục thì bạn cần phải chuẩn bị hồ sơ càng sớm càng tốt và nộp đơn yêu cầu Cục SHTT chấm dứt hiệu lực của nhãn hiệu đối chứng. Theo điểm 21.2.b Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ ngày 14/02/2007(4), sửa đổi bổ sung bởi Thông tư 01/2016/TT-BKHCN hồ sơ gồm những tài liệu sau:
(i) Tờ khai yêu cầu chấm dứt, hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ, làm theo Mẫu 04-CDHB quy định tại Phụ lục C của Thông tư này;
(ii) Chứng cứ (nếu có);
(iii) Giấy ủy quyền (trường hợp nộp văn bản yêu cầu thông qua đại diện);
(iv) Bản giải trình lý do yêu cầu (nêu rõ số văn bằng, lý do, căn cứ pháp luật, nội dung đề nghị chấm dứt, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ hiệu lực văn bằng bảo hộ) và các tài liệu liên quan theo quy định tương ứng tại các điểm 7.2, 22.2 và 22.3 của Thông tư này;
(v) Bản sao chứng từ nộp phí, lệ phí (trường hợp nộp phí, lệ phí qua dịch vụ bưu chính hoặc nộp trực tiếp vào tài khoản của Cục Sở hữu trí tuệ).
Trên cơ sở đầy đủ hồ sơ, Cục Sở hữu trí tuệ sẽ xem xét và ra văn bản thông báo cho chủ sở hữu nhãn hiệu đối chứng về yêu cầu chấm dứt hiệu lực và đồng thời ấn định thời hạn 2 tháng kể từ ngày thông báo để chủ sở hữu nhãn hiệu đối chứng có ý kiến. Tuỳ trường hợp Cục Sở hữu trí tuệ cũng có thể tổ chức cuộc đối thoại trực tiếp giữa người có yêu cầu chấm dứt hiệu lực và chủ sở hữu nhãn hiệu đối chứng. Tuy vậy, tuỳ thuộc vào chứng cứ do các bên cung cấp, Cục Sở hữu trí tuệ sẽ ra quyết định chấm dứt hiệu lực hoặc quyết định từ chối chấm dứt hiệu lực. Nếu không đồng ý, một trong các bên có quyền thực hiện quyền khiếu nại đối với người ra quyết định đó hoặc tiến hành khởi kiện vụ án hành chính.
Thay cho cho lời kết
Thực trạng nhãn hiệu đã đăng ký nhưng chưa bao giờ được sử dụng hoặc đã sử dụng nhưng lại quay trở lại tình trạng không sử dụng trong nhiều năm đã thực sự trở thành một trong những rào cản đối với tự do thương mại và dịch vụ. Chừng nào chúng ta chưa có hành động cụ thể để chấm dứt hiệu lực của những nhãn hiệu đó thì chừng đó chúng vẫn còn hiện hữu trong Đăng bạ Quốc gia Nhãn hiệu hàng hoá và tiếp tục cản trở quyền cạnh tranh lành mạnh của các doanh nghiệp. Chúng tôi chỉ mong bài viết trên đây góp một phần nào đó giúp các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh lành mạnh có thể tự tìm cho mình giải pháp loại bỏ trở ngại trong quá xây dựng và bảo vệ thương hiệu của mình.
3. Khi nào nên chia tay với một nhãn hiệu?
Yêu cầu tiếp cận với nhiều thị trường và đa dạng hóa các dòng sản phẩm khiến các công ty đa nhãn hiệu ngày nay đã tung ra thị trường hàng loạt các nhãn hiệu để phân tán rủi ro. Tuy nhiên, từ thập niên 90, ngày càng nhiều công ty đã nhận ra rằng rất nhiều trong số các nhãn hiệu của họ không hề có giá trị đối với công ty. 80% thành quả họ đạt được chủ yếu là do 20% các nhãn hiệu đem lại. Vậy các công ty này nên xử lý thế nào? Liệu có nên sàng lọc và mạnh tay loại bỏ các nhãn hiệu không đem lại lợi nhuận không? Nếu nhất thiết phải làm như vậy thì có cách nào để giữ lại khách hàng của mình không, hay ít ra là không làm khách hàng phật ý?
Tại sao cần loại bỏ nhãn hiệu?
Trước khi đi đến quyết định chia tay với một nhãn hiệu bất kỳ, bạn cần phải xác định rõ vị trí của nhãn hiệu đó trong tập hợp các nhãn hiệu bạn đang có và việc rút nhãn hiệu ra khỏi một thị trường cụ thể sẽ không đồng nghĩa với việc loại bỏ hẳn nhãn hiệu đó. Tuy nhiên thực tế kinh doanh cho thấy, có những nhãn hiệu đã từng rất nổi tiếng lại không nên duy trì nữa. Theo Martin Roll, chuyên gia tư vấn chiến lược hàng đầu châu Á, thì có 5 lý do để bạn loại bỏ một nhãn hiệu ra khỏi thị trường.
1. Chi phí để đổi mới nhãn hiệu quá lớn so với lợi nhuận mà nó thu được. Công ty quyết định loại bỏ, thay vì đổi mới nhãn hiệu, chính là do những thiệt hại mà bạn phải chịu thấp hơn nhiều so với việc đầu tư để làm mới nó. Tài chính luôn là yếu tố quan trọng và vì vậy, khi một nhãn hiệu không còn đem lại lợi nhuận cho nhà sản xuất thì việc chủ động từ bỏ, chuyển nhượng hoặc đơn giản là để nó tự biến mất luôn là những lựa chọn khôn ngoan.
2. Một khi nhãn hiệu đã tạo nên hình ảnh tiêu cực thì rất khó để cải thiện hình ảnh đó. Ví dụ, thuốc lá là mặt hàng luôn bị đặt dưới sự kiểm soát gắt gao của các cơ quan luật pháp, do đó, chỉ giữ lại nhãn hiệu tốt nhất và loại bỏ các nhãn hiệu khác là điều có ảnh hưởng rất lớn đối với hoạt động kinh doanh của công ty. Chính vì lý do này mà Philip Morris Companies đã đổi tên Altria Group để thoát khỏi hình ảnh tiêu cực của nhãn hiệu cũ và để bảo vệ những nhãn hiệu khác như Kraft.
3. Đầu tư quá dàn trải vào nhãn hiệu sẽ ảnh hưởng tới chất lượng đầu tư cho từng nhãn hiệu. Một trong những hãng sản xuất hàng tiêu dùng hàng đầu thế giới Unilever năm 1999 đã phát hiện ra rằng họ có tới …1600 nhãn hiệu, nhưng trong số đó chỉ có khoảng 400 nhãn hiệu đem lại 90% lợi nhuận cho hãng, còn 1200 nhãn hiệu kia chỉ đạt mức lợi nhuận tối thiểu, thậm chí thua lỗ. Đương nhiên sớm hay muộn điều này cũng sẽ ảnh hưởng tới việc đầu tư vào các nhãn hiệu thành công. Đó chính là lý do để Unilever triển khai một chương trình loại bỏ nhãn hiệu.
4. Sự cạnh tranh giữa các nhãn hiệu của cùng một lĩnh vực. Nhiều công ty tạo ra các nhãn hiệu mà lại quên mất rằng chúng vô tình hướng tới cùng một đối tượng khách hàng và trở thành các đối thủ bất đắc dĩ của nhau. Do đó, khi đã xác định được một nhãn hiệu đi đầu trong một lĩnh vực, thì bạn nên nghĩ tới việc từ bỏ các nhãn hiệu yếu hơn trong lĩnh vực đó.
5. Công ty không tin tưởng vào sức mạnh của nhãn hiệu. Khi công ty không tin tưởng rằng nhãn hiệu của mình sẽ hoạt động hiệu quả thì họ sẽ không mấy chú trọng đầu tư cho nhãn hiệu đó. Kết quả là nhãn hiệu sẽ bị thị trường đào thải.
Luật sư tư vấn đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ Gọi: 1900.0191
4. Loại bỏ nhãn hiệu như thế nào?
Chia tay với các nhãn hiệu đã từng đem lại lợi nhuận cho bạn quả là một việc khó khăn, một quá trình gian nan và đòi hỏi bạn phải thật khéo léo. Thông thường, các công ty thường cho rằng việc loại bỏ một vài nhãn hiệu nào đó sẽ làm họ mất khách hàng. Đây cũng chính là trở ngại lớn đối các công ty khi cơ cấu lại bộ nhãn hiệu của mình. Mặt khác, việc hoạch định lộ trình chi tiết để chấm dứt sự tồn tại của một nhãn hiệu cũng không đơn giản, chưa kể nguy cơ mất quyền lợi đối với nhãn hiệu cũng là một vấn đề không nhỏ. Bằng chứng là nhiều năm sau này, Procter & Gamble vẫn còn bị ám ảnh bởi nhãn hiệu giấy vệ sinh White Cloud và Charming mà mình đã loại bỏ.
Trước khi thực hiện chương trình tái cơ cấu nhãn hiệu, bạn cần xác định xem liệu công ty có sở hữu quá nhiều nhãn hiệu không. Nirmalya Kumar, một chuyên gia về tiếp thị và thương hiệu, đã đưa ra 10 câu hỏi để xác định mức độ phong phú của nhãn hiệu. Đương nhiên chúng ta nên kết hợp sử dụng các câu hỏi đúng/sai này với các thông tin liên quan đến nhãn hiệu như doanh số, doanh thu, chi phí, thị phần…
– Có phải 50% các nhãn hiệu của chúng ta không đem lại hiệu quả?
– Có phải công ty không thể đuổi kịp các đối thủ cạnh tranh của mình trong lĩnh vực tiếp thị và quảng cáo cho nhiều nhãn hiệu?
– Có phải công ty đang tiêu phí tiền của vào các nhãn hiệu yếu?
– Công ty có song song sử dụng các nhãn hiệu khác nhau cho cùng một sản phẩm tại những nước khác nhau?
– Việc đầu tư vào phân đoạn thị trường, sản xuất hàng hóa, xây dựng nhãn hiệu và tổ chức các kênh phân phối của một nhãn hiệu nào đó có chồng chéo không?
– Khách hàng của công ty có cho rằng các nhãn hiệu của công ty đang cạnh tranh lẫn nhau không?
– Các cửa hàng bán lẻ có phải lưu kho các sản phẩm thuộc một, hay một vài các nhãn hiệu nào đó của công ty hay không?
– Việc tăng cường quảng cáo cho một nhãn hiệu có làm ảnh hưởng tới doanh số của một nhãn hiệu nào khác không?
– Công ty có phải mất quá nhiều thời gian để phân bổ nguồn lực đầu tư cho các nhãn hiệu không?
– Giám đốc của nhãn hiệu này có coi giám đốc của nhãn hiệu kia là đối thủ lớn nhất của mình không?
Sau khi quyết định loại bỏ nhãn hiệu, bạn phải tiến hành một cách có hệ thống 4 bước sau đây:
Bước thứ nhất: tính toán các chi phí riêng và phân bổ các chi phí chung cho các nhãn hiệu để xác định mức lợi nhuận, thị phần và giá trị của từng nhãn hiệu.
Bước thứ hai: quyết định sẽ giữ lại bao nhiêu nhãn hiệu. Việc quyết định giữ lại nhãn hiệu nào phụ thuộc vào mức độ phù hợp của nhãn hiệu với những mục tiêu lâu dài của công ty, hoặc với các phân đoạn thị trường mà công ty đang hoạt động.
Bước thứ ba: đánh giá lại một lần nữa các nhãn hiệu để quyết định sát nhập, bán, cắt giảm đầu tư hay xóa bỏ nhãn hiệu.
– Sát nhập nhãn hiệu: là việc chuyển nhượng các đặc tính, đặc điểm, giá trị hay hình ảnh của một nhãn hiệu. Bạn có thể lựa chọn cách này để thu lại một phần khoản tiền đã đầu tư vào nhãn hiệu
– Bán nhãn hiệu: Bán những nhãn hiệu không phù hợp với chiến lược của công ty, ngay cả khi nhãn hiệu đang hoạt động hiệu quả, sẽ giúp bạn loại bỏ bớt số đối thủ cạnh tranh trong tương lai.
– Vắt kiệt nhãn hiệu: Đôi khi việc bán các nhãn hiệu đang được khách hàng ưa chuộng không thực hiện được vì nhiều lý do. Trong trường hợp đó, thay vì tiếp tục tái đầu tư, bạn nên giữ lại càng nhiều lợi nhuận từ nhãn hiệu càng tốt. Ngoài ra, bạn cũng nên cắt giảm các chi phí tiếp thị và quảng cáo cho nhãn hiệu, thu hẹp tối đa mạng lưới phân phối cho tới khi nhãn hiệu không thể đứng vững được.
– Xóa bỏ nhãn hiệu: Đối với các nhãn hiệu ngay từ khi tung ra thị trường đã không thành công, bạn nên sớm quyết định xóa bỏ chúng, bất chấp khả năng bị khách hàng phản đối. Khi đó, bạn có thể tăng cường việc phát hàng dùng thử miễn phí, tặng phiếu giảm giá đối với các nhãn hiệu khác để giữ khách hàng,
Bước thứ tư: Phát triển các nhãn hiệu chủ chốt
Sau quá trình sàng lọc và loại bỏ những nhãn hiệu không thành công, lợi nhuận của bạn sẽ có xu hướng tăng lên. Mặc dù vậy, bạn không bao giờ được phép lơ là đối với các mục tiêu lâu dài của mình và phải tập trung thời gian, tiền bạc vào việc phát triển các nhãn hiệu còn lại. Chỉ khi tập trung vào một vài nhãn hiệu mạnh, bạn mới có lợi thế hơn hẳn trước các đối thủ cạnh tranh.
Tuy vậy, vẫn có những người cho rằng không nên loại bỏ mà nên phục hồi nhãn hiệu. Do đó, trong quá trình sàng lọc nhãn hiệu, bạn phải luôn đưa ra những lý do giải thích thỏa đáng, đồng thời tuân thủ nguyên tắc chỉ loại ra những nhãn hiệu yếu. Ngoài ra, bạn có thể gặp phải nguy cơ khách hàng của mình sẽ tìm đến với các đối thủ cạnh tranh. Vậy nên bạn cần chú ý tới vấn đề này để có thể vẫn loại bỏ được nhãn hiệu yếu, vừa giữ được khách hàng của mình.
5. Liên hệ sử dụng dịch vụ đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam
Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi:
CÔNG TY LUẬT TNHH LVN GROUP
Điện thoại yêu cầu dịch vụ Luật sư của LVN Group tư vấn pháp luật Sở hữu trí tuệ, gọi: 1900.0191
Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: [email protected]
Rất mong nhận được sự hợp tác cùng Quý khách hàng!
Trân trọng./.
Bộ phận Luật sư sở hữu trí tuệ – Công ty luật LVN Group