Ở Việt Nam hiện nay, xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế toàn diện là mục đích của bài viết. Báo chí là một lĩnh vực hoạt động đa dạng, văn hoá pháp luật của phóng viên là một vấn đề khá mới mẻ, trong khi đó sự hiểu biết và tầm quan sát của người viết lại có hạn, vì vậy bài chỉ xem xét chủ yếu trong lĩnh vực báo viết.

I. VĂN HÓA PHÁP LUẬT CỦA PHÓNG VIÊN – MỘT BỘ PHẬN CẤU THÀNH CỦA VĂN HOÁ PHÁP LUẬT NÓI CHUNG

1. Phóng viên – anh là ai?

Để trả lời cho câu hỏi này, thiết nghĩ, cần phải đặt người phóng viên dưới các góc độ khác nhau như công dân, nhà báo và phóng viên… để xem xét:

Là một công dân: phóng viên nói riêng, và nhà báo nói chung, được hưởng những quyền (dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá… ) và làm nghĩa vụ công dân như đã được quy định trong Hiến pháp – đạo luật Mẹ – tại Chương V và được cụ thể hoá trong các văn bản pháp lý khác. “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”, “Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội” là những nguyên tắc hiến định, mà phóng viên, nhà báo không là ngoại lệ. Ngoài các quy phạm pháp luật, phóng viên còn phải luân thủ các quy ước xã hội và những quy tắc đạo đức, như: phong tục, tập quán, hương ước nơi phóng viên sinh sống nếu có.

– Là một tri thức: phóng viên là người hoạt động chủ yếu bằng trí óc, sản phẩm của phóng viên là những tác phẩm báo chí, trong đó kết tinh trí tuệ, tình cảm, cá tính của anh ta. Thông qua tác phẩm báo chí mà phóng viên tác động đến xã hội, dẫn dắt hành vi, định hướng hoạt động của con người trong xã hội. Thức tỉnh lương tâm thời đại, nhà báo cũng như người trí thức còn thực hiện chức năng phản biện xã hội. Chính vì điểm này mà người ta hay gọi nhà báo, cũng như các văn nghệ sĩ là người có sứ mạng”, người mang những “thông điệp”, được đông đảo nhân dân yêu quý, tin cậy, gửi gắm.

Để làm tròn “sứ mạng” và có những “thông điệp” tốt, thì ngoài trình độ văn hoá tổng hợp mà bất kỳ một trí thức nào cũng phải có, đối với phóng viên, ảo còn là vấn n đề lương tâm, đạo đức nghề nghiệp, danh dự và trách nhiệm của “kẻ sĩ” trong xã hội, trước dân tộc trên tinh thần “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”.

>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi:1900.0191

– Là một nhà báo: không phải tất cả các nhà báo đều là phóng viên, nhưng đã là phóng viên thì nhất định là nhà báo. Theo cách hiểu chính thống, thì nhà báo là người hoạt động báo chí- chuyên nghiệp và được cấp thẻ nhà báo. Như vậy, một hội viên Hội nhà báo chưa chắc đã là nhà báo, nếu anh ta chưa được cấp “thẻ nhà báo”. Thẻ nhà báo là thẻ hành nghề.

Thuật ngữ “báo chí” hiểu một cách chung nhất, thì là sự tổng hợp hoạt động của các phương tiện truyền thông đại chúng. Còn theo Điều 3 Luật Báo chí (LBC) hiện hành thì : ”Báo chí trong Luật này là báo chí Việt Nam, bao gồm: báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (chương trình phát thanh), báo hình (chương trình truyền hình, chương trình nghe nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác nhau), báo điện tử (được thực hiện trên mạng thông tin máy tính ) bằng tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài”.

Là một loại hình hoạt động thông tin, ra đời do nhu cầu khách quan của xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất định, báo chí có vai trò, ý nghĩa to lớn trong xã hội. Tổng hợp những vai trò, ý nghĩa, tác dụng của báo chí chính là những chức năng xã hội của báo chí ”… là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sông xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội; là diễn đàn của nhân dân ” (Điều 1 LBC). Diễn giải cụ thể hơn, báo chí có bốn nhóm chức năng cơ bản sau:

Thứ nhất, nhóm chức năng tư tưởng. Là một loại hình thông tin tổng hợp, trong khi thông tin trong thua về tình hình trong trước và thế giới phù hợp nói lợi ích của đất nước và của nhân dân ” (Điều 6 khoản 1 LBC), báo chí giúp cho công chúng hình thành những khát vọng, quan điểm và lý tưởng, nhận thức sâu sắc, đúng đắn những vấn đề cấp bách của đất nước và tình hình quốc tế. Đồng thời, báo chí phổ biến những kinh nghiệm tết trong sự nghiệp đổi mới đất nước, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Với khả năng tác động một cách rộng lớn, nhanh chóng và mạnh mẽ vào xã hội, hoạt động báo chí ”góp phần ổn định chính trị, nâng cao dân trí, đáp ứng yêu cần văn hoá lành mạnh của nhân dân , bảo vệ và phát huy truyền thông tốt đẹp mỉa dân tộc, xây dựng và phát lây dân chủ XHCN, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dung vì bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN ” (Điều 6 khoản 2 LBC). Trong khi phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội; làm diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn luận của nhân dân” (Điều 6 khoản 3 LBC), báo chí tạo điều kiện để toàn dân tham gia thảo luận và giải quyết những vấn đề quan trọng của đất nước, phê phán và đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực cản trở sự phát triển của xã hội.

Thứ hai, nhóm chức năng tham gia quản lý xã hội. Quản lý là chức năng cơ bản của Nhà nước, với những hoạt động đặc thù, báo chí góp phần vào v iệc quản lý xã hội thông qua việc cung cấp thông tin cả hai chiều giữa chủ thể và khách thể quản lý để trên cơ sở đó cơ quan chức năng có thẩm quyền ra những quyết định đúng đắn. Báo chí thực hiện chức năng quản lý xã hội theo các hướng: a. Thông qua việc đăng tải, bình luận, phân tích và giải thích các văn kiện, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, báo chí góp phần tích cực vào việc “tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước và thế giới theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí”(Điều 6 khoản 2 LBC), b. Tham gia vào việc kiểm tra các chủ thể bị quản lý trong việc thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật để “phát hiện nêu gương người tốt việc tốt, nhân tố mới; đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác (Điều 6 khoản 4 LBC); c. Tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong đời sống kinh tế – xã hội, trong tổ chức Đảng và các cơ quan Nhà nước, nhất là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thiếu tinh thần trách nhiệm. Hoạt động chống tiêu cực tốt cũng là thực hiện tính chiến của Báo chí.

Thứ ba, nhóm chức năng phát triển văn hoá và giải trí nhằm nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hoá lành mạnh của nhân dân, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Bên cạnh một nền chính trị ổn định, một nền kinh tế thị trường đa dạng, thì một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cũng phải được đồng thời xây dựng. Trong một nền văn hoá như thế, những mối quan hệ và ứng xử giữa người với người trong gia đình, tập thể, xã hội cần phải Ià những hành vi hợp pháp và hợp đạo đức.

Thứ tư, nhóm chức năng quốc tế thể hiện trước hết ở hoạt động hợp tác quốc tế đa dạng, đa phương trong lĩnh vực. báo chí, thông tin-văn hoá trên tinh thần tôn trọng chủ quyền dân tộc và các bên cùng có lợi. Báo chí cũng cần bày tỏ thái độ ủng hộ các phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội của các dân tộc trên thế giới, trực tiếp tham gia vào các phong trào có quy mô toàn cầu về bảo vệ môi trường, chống đói nghèo, đấu tranh vì một trật tự thế giới mới bình đẳng và hữu nghị.

– Là một phóng viên: phóng viên là người hoạt động chuyên nghiệp trong một cơ quan báo chí cụ thể, có thẻ nhà báo, làm công tác phản ánh thông qua tiệc đưa tin, viết bài…

Trong một toà soạn báo, nếu nhìn vào tính chất công việc, thấy rằng: có một số người làm công tác tổ chức, quản lý báo chí (thường gọi là cán bộ lãnh đạo toà soạn, cơ quan); một số người, thường là không đông lắm, chuyên làm công tác bình luận (chuyên gia có hiểu biết sâu về một số lĩnh vực); một số người viết tiểu phẩm, vẽ tranh châm biếm… Một số người, thường là khá đông đảo làm công tác phản ánh. Họ chính là phóng viên. Nói một cách khác, phóng viên, tức là người làm công tác phản ánh, họ thường nhận kế hoạch cụ thể của toà soạn (thường do các trưởng ban trực tiếp phân công) để đi đưa tin, viết bài nghiên cứu nắm bắt tình hình… Người phóng viên có nhiệm vụ phản ánh những sự kiện mới, vấn đề mới, con người mới nhằm góp phần tuyên truyền, cổ động, tổ chức tập thể. Các tin bài ghi nhanh, tường thuật, phóng sự, điều tra… là sản phẩm báo chí của phóng viên. Trong đội ngũ phóng viên lại có người chuyên theo dõi và viết bài về nông nghiệp, công nghiệp, thị trường, Toà án… người ta thường gọi đó là phóng viên công nghiệp, nông nghiệp, thị trường, pháp đình… Ngoài những tiêu chí chung của một nhà báo, mỗi một toà soạn có đội ngũ phóng viên của mình hành động phù hợp với tôn chỉ của tờ báo đó.

Để hoàn thành tốt công việc của mình, người phóng viên phải không ngừng nâng cao kiến thức mọi mặt và vốn sống thực tế, trong đó trước hết phải nắm vững đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Bởi vì đường lối, chủ trương của Đảng là những định hướng lớn, còn pháp luật là sự thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng.

2. Văn hoá pháp luật của phóng viên là gì?

Như ta đã biết, pháp luật là một hình thái của văn hoá, là một bộ phận cấu thành nên văn hoá. Còn văn hoá, trong đó có văn hoá pháp luật, chính là chiều sâu, là sự hiểu biết và chuyển hóa các quy phạm pháp luật vào hành vi ứng xử của con người, là sự thăng hoa của pháp luật trong ký ức cộng đồng cũng như trong thực tế đời sống. Là một bộ phận của văn hóa nói chung, đến lượt nó, văn hoá pháp luật – một lĩnh vực văn hoá chuyên ngành, góp phần làm phong phú và giàu có thêm cho một nền văn hoá nói chung. Khi xem xét một chế độ xã hội, người ta không thể bỏ qua những đạo luật lớn thuộc về “văn hoá phi vật thể”, bên cạnh những “văn hoá vật thể khác”.

Văn hóa pháp luật là một hiện tượng khá phong phú, tuỳ theo tiêu chí phân loại, thường là tương đối , mà có các loại văn hoá pháp luật khác nhau . Chẳng hạn, nếu xét theo tiêu chí “lĩnh vực hoạt động” thì có: văn hoá pháp luật trong các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp (xét xử)… Nếu xét theo tiêu chí ”chủ thể”, thì có: văn hoá pháp luật của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đội ngũ công nhân viên chức, doanh nhân, nhà báo, nhà giáo… Nếu xét theo tiêu chí ”cấp độ”, thì có: văn hoá pháp luật phổ thông, văn hoá pháp luật chuyên ngành, văn hóa pháp luật nghề nghiệp… Như vậy, nếu xét theo tiêu chí chủ thể, phóng viên thuộc đội ngũ nhà báo, còn xét theo tiêu chí cấp độ, văn hoá pháp luật của phóng viên thuộc về văn hoá pháp luật nghề nghiệp. Đến lượt mình, văn hoá pháp luật của phóng viên có thể chia ra làm hai loại là: văn hoá Pháp luật của giới phóng viên và văn hoá pháp luật của cá nhân người phóng viên.

Vậy, văn hoá pháp luật của phóng viên là gì? Cũng như khái niệm “văn hoá”, “văn hoá pháp luật”, để đưa ra một định nghĩa chuẩn về văn hoá pháp luật của phóng viên” là rất khó. Tuy nhiên, một cách chung nhất, thì có thể hiểu văn hoá pháp luật của phóng viên là tri thức, ý thức pháp luật của người phóng viên và những hành vi xử sự hợp pháp luật trong mối quan hệ với hoạt động nghề nghiệp (báo chí) của họ. Những yếu tố”cấu thành” nền văn hoá pháp luật của phóng viên bao gồm:

– Kiến thức (tri thức pháp luật) của phóng viên: thể hiện ở sự hiểu biết, nắm vững nội dung các văn bản pháp luật của Nhà nước, nhất là những văn bản có liên quan đến lĩnh vực hoạt động của phóng viên đó trước hết là Luật Báo chí và các quy chế nghề nghiệp khác. Kiến thức pháp luật của phóng viên được hình thành và phát triển thông qua đào tạo chính quy trong các trường hoặc khoa chuyên luật, qua các lớp bồi dưỡng nâng cao hoặc do quá trình tự tích lũy nghiên cứu, học hỏi, tìm hiểu của người phóng viên.

– Ý thức pháp luật của phóng viên: thể hiện ở tình cảm và niềm tin của phóng vyiên đối với pháp luật, khẳng định những giá trị pháp luật là quan trọng và cần thiết đối với xã hội, cũng như có ý thức giữ gìn, bảo vệ những giá trị ấy. Bên cạnh đó, ý thức pháp luật của phóng viên cũng đòi hỏi người phóng viên tự ý thức về sự cần thiết phải trau dồi nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật , trình độ ứng xử phù hợp với các chuẩn mực pháp luật.

-Hành vi hợp pháp của phóng viên: thể hiện trước hết qua xử sự của phóng viên trong đời sống nói chung và trong tác nghiệp báo chí nói riêng, đặc biệt là trước các cơ quan tư pháp, nhất là tại phiên toà. Việc tôn trọng và tuân thủ pháp luật, trước hết là những quy định liên quan trực tiếp đến trách nhiệm của báo chí, nghĩa vụ của nhà báo, cũng như việc vận dụng các quy định pháp luật về các quyền của nhà báo để tự bảo vệ mình, là những biểu hiện về “trình độ văn hoá pháp lý” của người phóng viên.

Nói đến phóng viên là nói đến bài báo, do vậy, bên cạnh hành vi xử sự hợp pháp, thì những bài báo “thấu tình, đạt lý ‘; khiến độc giả, khán giả, thính giả phải “tâm phục, khẩu phục” cũng là những điều không thể bỏ qua khi nói về trình độ văn hoá pháp lý của người phóng viên.

Một vấn đề đặt ra là, có thước đo trình độ văn hóa pháp luật của phóng viên không? Nếu có, thì thước đo đó là gì? Thật khó có câu trả lời chính xác, song từ những bộ phận cấu thành nên ý thức pháp luật nói chung, có thế suy ra trình độ văn hoá pháp lý của phóng viên thể hiện ở: thứ nhất, mức độ ‘ hiểu biết, mức độ nắm vững pháp luật của người phóng viên; thứ hai, ở hành vi xử sự có tính chất hợp pháp của phóng viên, nhất là nội dung các bài báo của phóng viên có đề cập đến pháp luật. Không thể nói một phóng viên có trình độ văn hoá pháp lý cao mà lại không có kiến thức pháp luật ở trình độ tối thiểu, không thấy được tầm quan trọng và vai trò của pháp luật trong xã hội, có những hành vi bất chấp pháp luật hoặc thờ ơ với những hành động vi phạm pháp luật, có những bài viết liên quan đến pháp luật, mà trong đó lại sử dụng sai hoặc có những phân tích không đúng về mặt pháp lý.

Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là các văn bản pháp luật thì nhiều (ngoài Hiến pháp – đạo luật Mẹ, còn có những Bộ luật như Dân sự, Hình sự, Lao động, Tố tụng Dân sự, Tố tụng Hình sự… các đạo luật chuyên ngành như: hành chính, thương mại, đất đai, môi trường… cũng như hàng trăm các pháp lệnh, nghị định hướng dẫn… ). Hơn nữa, các văn bản đó lại được sửa đổi, bổ sung liên tục thì làm .thế nào để một người phóng viên, thường không phải là những nhà luật học, lại có thế nắm vững được nó? Đây là một vấn đề khá hóc búa đối với người phóng viên sẽ được đề cập trong mục: làm gì để phát triển và nâng cao văn hoá pháp luật cho đội ngũ phóng viên trong bối cảnh hiện nay?

II. THỰC TRẠNG VĂN HOÁ PHÁP LUẬT CỦA PHÓNG VIÊN BÁO CHÍ

“Báo chí” là một lĩnh vực hoạt động khá phong phú và ngày càng phát triển. Hiện cả nước có 702 cơ quan báo chí, 813 ấn phẩm, 67 đài phát thanh truyền hình, 1 hãng thông tấn quốc gia, 1 đài truyền hình kỹ thuật số mặt đất, 10 báo điện tử, 130 trang tin điện tử và hơn 15.000 nhà báo được cấp thẻ, trong số đó chiếm đa phần là phóng viên. Do vậy, để đánh giá đúng thực trạng văn hoá pháp luật của phóng viên, thiết nghĩ phải có sự điều tra khảo sát có tính chất xã hội học và đó phải là công việc. của một nhóm người với thời gian tiến hành và chi phí cần thiết. Tuy nhiên, với sự quan sát tìm hiểu của cá nhân, tất nhiên là sẽ không tránh được sự chủ quan, phiến diện, có thể phân thực trạng văn hoá pháp luật của phóng viên ra làm hai loại là:

1. Thực trạng văn hoá pháp luật của phóng viên nói chung

a . Kiến thức pháp luật và ý thức tìm hiểu nghiên cứu pháp luật

Nhìn chung, các phóng viên báo chí đều có một kiến thức pháp luật nhất định. Điều này được thể hiện ở: thứ nhất, họ có được học tập, nghiên cứu một số vấn đề về Nhà nước và pháp luật trong nhà trường. Trước khi vào đại học, các tiết học về “pháp luật và công dân” trong trường phổ thông đã cho họ ít nhiều hình dung về Nhà nước và pháp luật. Tại các trường đại học, nơi hầu hết các phóng viên đã trải qua, thì đều có giảng dạy hoặc ít hoặc nhiều về pháp luật qua môn “Nhà nước và pháp luật đại cương”. Những môn học này cung cấp cho sinh viên những kiến thức đại cương nhất về Nhà nước (định nghĩa, bản chất, chức năng, vai trò… ) và pháp luật (định nghĩa, bản chất, vai trò… ), cũng như kiến thức cơ bản nhất về các ngành luật trong hệ thống pháp luật (Hiến pháp, Hình sự, Dân sự, Lao động, Đất đai, Doanh nghiệp… ); thứ hai, phóng viên thường là người có ý thức tự tìm hiểu , học . hỏi kiến thức tổng hợp về văn hoá- xã hội để đáp ứng đòi hỏi của nghề nghiệp, trong đó pháp luật cũng được nhiều phóng viên dành cho sự quan tâm đặc biệt.

Khi được hỏi về “sự quan tâm của anh chị về pháp luật”, thì đa phần các phóng viên đều cho biết là đã có nghiên cứu những văn bản pháp luật, đặc biệt là những văn bản trong lĩnh vực quản lý báo chí như: Luật Báo chí, thông qua ngày 28/12/1989 (sửa đổi, bổ sung một số điều, ngày 12/6/1999) và Nghị định số 5 l/2002/nđ-cp ngày 26/4/1992 quy định chi tiết Luật sửa đổi, bổ sung Luật Báo chí; Nghị định số 55/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 về quản lý cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet; Pháp lệnh Bảo vệ bí mật Nhà nước ngày 28/12/2000; Quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm ~ báo Việt Nam, được Đại hội đại biểu Hội nhà báo Việt Nam lần thứ Vi thông qua, ban hành ngày l3/8/2005; Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí được Chính phủ ban hành ngày 28/5/2007…

– Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung bao gồm 3 1 điều, trong đó quy định về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận của công dân; nhiệm vụ quyền hạn của báo chí; tổ chức báo chí và nhà báo; quản lý nhà nước về báo chí; khen thưởng và xử lý vi phạm được hầu hết các phóng viên nắm chắc, nhất là các quy định liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của nhà báo quy định tại Điều 15 Luật Báo chí.

Ngoài các quy định về quyền và nghĩa vụ của nhà báo, thì những vấn đề như nhiệm vụ quyền hạn của báo chí, cung cấp thông tin cho báo chí, trả lời trên báo chí, cải chính trên báo chí, những điều không được thông tin trên báo chí… cũng được các phóng viên nắm khá chắc. Điều này cũng dễ hiểu, vì đây là những quy định trực tiếp, khá sát sườn đối với báo chí, mà một phóng viên khi tác nghiệp không thể không biết.

– Bản Quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam, gồm có 9 điểm, khá dễ nhớ dễ thuộc, theo đó, người làm báo Việt Nam nguyện thực hiện những quy định về đạo đức nghề nghiệp cơ bản nhưng rất quan trọng.

– Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí được Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 28/5/2007, trong đó quy định về người phát ngôn và cung cấp thông tin; phát ngôn và cung cấp thông tin định kỳ và trong trường hợp đột xuất bất thường; quyền và trách nhiệm của người phát ngôn… Bản Quy chế này cũng được các phóng viên tìm hiểu khá kỹ, vì nó liên quan trực tiếp đến tác nghiệp hàng ngày của phóng viên.

– Một số bộ luật hoặc đạo luật lớn như: Hiến pháp, các bộ luật Hình sự, Dân sự, Tố tụng Hình sự, Tố tụng Dân sự; Lao động… các đạo luật hôn nhân gia đình, đất đai, sở hữu trí tuệ, giao thông, xây dưng… cũng được các phóng viên đọc, hoặc tham khảo khi cần thiết.

– Ngoài ra, khi cần phải phân tích các khía cạnh pháp lý của một vụ án, hoặc viện dẫn điều luật chuyên ngành trong các bài viết có liên quan đến luật pháp hoặc bài viết chống tiêu cực, một số phóng viên có ý thức tranh thủ ý kiến tư vấn của các Luật gia, Luật sư.

b. Những “lỗi” mà người phóng viên thường mắc. Vì không được đào tạo cơ bản về pháp luật, nhất là hiểu biết sâu về từng ngành luật, nên phóng viên, nhìn chung, trong bài viết hoặc bài nói hay mắc những lỗi cụ thể như:

– Không thực sự nắm vững về trình tự tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử một vụ án hình sự như: khởi tố bị can, khởi tố vụ án; sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, hoặc là các thuật ngữ pháp lý như: kháng cáo kháng nghị, đương sự, bị can, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan… ;

Nhầm lẫn trong khi sử dụng ngôn ngữ luật pháp trong bài viết, hay bài nói, ví dụ như viện kiểm sát = viện kiếm soát; nhân thân = thân nhân; pháp nhân = con người, trong đó pháp nhân là một tổ chức phải thoả mãn những điều kiện luật định; chế tài = nhầm lẫn với nhiều cái khác, như đồng nghĩa chế tài với quy phạm pháp luật “thiếu chế tài chưa có chế tài”…;

– Nhầm lẫn trong khi viết về tội danh, chẳng hạn như “Tội tham nhũng”: trong Bộ luật hình sự không có tội cụ thể này, mà chỉ có nhóm “các tội phạm về tham nhũng”, cụ thể gồm các Tội “tham ô tài sản” (Điều 278); “nhận hối lộ” (Điều 279); “lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280); “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vui (Điều 281 )… “Tội trấn lột”: trong Bộ luật Hình sự không có tội này, mà chỉ có tội “cướp tài sản” (Điều 133); “bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” (Điều 134): “cưỡng đoạt tài sản” (Điều 135); “cướp giật tài sản” (Điều 136) hoặc “ngang nhiên chiếm đoạt tài sản” (Điều 137)… ;

– Một số phóng viên khi viết về các vụ việc nhất là chống tiêu cực có hiện tượng quy kết tội danh”. Chẳng hạn, khi viết một vụ tiêu cực cụ thể nào đấy, thì thường hoặc trích ngay điều luật quy định về tội danh và khung hình phạt trong luật Hình sự để phân tích ‘hoặc bình luận, như là buộc tội, khép tội. Trong khi đó, một nguyên tắc quan trọng của Luật Hình sự là: không một ai bị coi là tội phạm khi chưa bị kết tội bằng một bản án hình sự do Toà án tuyên;

– Một số phóng viên khi lấy tin viết để viết bài về các vụ tiêu cực lại quá phụ thuộc vào tư liệu của cơ quan điều tra, hoặc cá nhân cán bộ điều tra mà không có sự kiếm định cần thiết về độ chính xác. Chẳng hạn như trường hợp hai phóng viên của báo Thanh niên và Tuổi trẻ bị khởi tố và bắt tạm giam vào ngày 12/5/2008. Trong khi đó, công việc báo chí đòi hỏi phóng viên phải độc lập trong khai thác tư liệu. Các tư liệu của cơ quan điều tra, công tố, Toà án, một khi chưa được công bố chính thức thì chỉ có ý nghĩa tham khảo;

– Một số phóng viên khi viết về vụ án, trong đó đã miêu tả những hành động chém giết rùng rợn, hoặc hành vi dâm ô trụy lạc gây dư luận và tâm lý không tốt trong nhân dân, nhưng báo vẫn đăng tải vì mục đích thương mại, vi phạm khoản 1 Điều 5 Nghị định 51 ;

– Có những bài viết vi phạm những quy định về đăng, phát ảnh người thật hoặc có quan hệ đến đời tư (Điều 5 khoản 3, 4 Nghị định 51 );

– Có những bài viết vi phạm những quy định về không được đăng, phát tin bài truyền bá hủ tục, mê tín, dị đoan, thần bí… (Điều 5 khoản 4 Nghị định 51 ) ;

– Có những bài viết vi phạm những quy định trong Pháp lệnh Bảo vệ bí mật Nhà nước ngày 28/1 0/1 99 1 (Điều 5 khoản Nghị định 51 ),

– Có bài viết có tính chất “hình sự hoá” những quan hệ dân sự, hoặc “dân sự hoá” các quan hệ nhẽ ra thuộc về hình sự… ;

– Có một số phóng viên chưa có những hiểu biết cần thiết về bản quyền tác phẩm báo chí, thậm chí có một số phóng viên có hành vi “đạo bài”; “ăn cắp ý tưởng”, “sào xáo bài” người khác…

Bên cạnh những “lỗi” thường mắc trong bài viết, bài nói, một số những phóng viên không chuyên về luật pháp; tư pháp cũng còn để mắc những “lỗi” về hành vi trong khi tác nghiệp cũng như trong đời sống. Chẳng hạn như, có phóng viên đến dự và đưa tin về phiên toà nhưng lại có thái độ thiếu tôn trọng chủ tọa phiên toà, vi phạm. các quy định về nội quy phiên toà; có phóng viên cố tình hoặc tìm mọi thủ thuật để “moi” các thông tin về vụ án còn đang ở giai đoạn điều tra Một số phóng viên khi hành nghề ở các địa phương còn có thái độ thiếu tôn trọng chính quyền, đoàn thể sở tại. Thậm chí, một số ít phóng viên vi phạm quy định pháp luật và quy định về đạo đức nghề nghiệp, có thái độ hành nghề thiếu trung thực, khách quan hoặc là lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi và làm trái pháp luật…

2. Thực trạng văn hóa pháp luật của phóng viên chuyên viết về luật pháp

Một số tờ báo, tạp chí, thường có ban nội chính, hoặc là ban phóng viên, trong đó có phóng viên hoặc nhóm phóng viên về nội chính. Những phóng viên nội chính thường là được phân công chuyên theo dõi các vấn đề hoạt động của các cơ quan trong hệ thống tư pháp. (công an; Toà án, kiểm sát), Thanh tra nhà nước, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp… Những phóng viện này cũng thường xuyên được mời dự họp và đưa tin về các cuộc họp của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân các cấp, hoặc đi dự các cuộc họp báo của Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ… khi công bố luật hoặc nghị định để đưa tin, viết bài.

Đơn cử báo “Pháp luật Việt Nam” cơ quan của Bộ Tư pháp có “Ban nội chính” gồm khoảng 10 người, trong đó có các nhóm phóng viên chuyên về từng lĩnh vực: Nhà nước, pháp luật, tư pháp, pháp đình. Hầu hết các phóng viên nội chính đều đã tốt nghiệp đại học luật chính quy hoặc có bằng hai về luật. Sở dĩ báo Pháp luật Việt Nam có ban nội chính vì rằng đây là một tờ báo ngành có tôn chỉ, mục đích, chức năng chuyên về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, phản ánh các hoạt động tư pháp, pháp luật. Ngoài các vấn đề tin tức, thời sự, Báo hiện có chuyên trang về “Nhà nước – Pháp ‘luật”; “Tư pháp – pháp đình”,”pháp luật và bạn đọc”… trong đó lại có các chuyên mục nhỏ. Đa số các báo trong hệ thống tư pháp như các tờ “Công an nhân dân”, “Công lý”, “Người bảo vệ pháp luật”, “Người đại biểu nhân dân”, “Đời sống và pháp luật”, “Pháp luật và đời sống”, “pháp luật TP HCM” … đều có phóng viên hoặc nhóm phóng viên nằm trong “Ban phóng viên” hoặc “Ban nội chính” chuyên theo dõi và viết bài về pháp luật và pháp đình, hoặc là phụ trách, theo dõi các chuyên mục như “Giải đáp pháp luật”, “Tư vấn pháp luật”, “Công dân và pháp luật” Một số các báo lớn như: “Nhân dân”, “Quân đội nhân dân”, “Tiền phong”, “Thanh niên”, “Tuổi trẻ”… có phóng viên, hoặc nhóm phóng viên nội chính. Các tạp chí chuyên ngành luật hoặc có quan hệ trực tiếp đến pháp luật như: “Nhà nước và pháp luật”, “Dân chủ và pháp luật”, “Lập pháp”, “Luật học”, “Nghề tư pháp”, “Toà án nhân dân”, “Viện kiểm sát nhân dân”… thì có các phóng viên (thường là kiêm luôn biên tập viên) vừa tham gia viết bài, biên tập bài và cả đặt bài khi cần thiết. Những người này có kiến thức khá sâu về luật pháp, trong đó có những người có bằng cấp hoặc học vị, học hàm cao trong lĩnh vực luật học, như thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư… Nhìn chung, các phóng viên “nội chính” hoặc chuyên trang pháp luật thườg là được đào tạo chính quy về luật pháp hoặc nếu chưa được đào tạo chính quy thì cũng có hiểu biết khá sâu về luật pháp, đặc biệt là những văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực của họ. Do ít nhiều được đào tạo hoặc có ý thức cao trong nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật mà những tin, bài của những phóng viên này ít có sai sót về mặt pháp lý so với các phóng viên nói chung. Cũng do được đào tạo khá chính quy và có ý thức cao về nghề nghiệp nên việc hành xử của các phóng viênchuyên về luật pháp trong cuộc sống, cũng như trước các cơ quan tư pháp, nhất là ở hiện trường vụ án, tại nhà giam, tại phiên toà… thường là đúng chuẩn mực, phù hợp với những yêu cầu quy định trong nội quy quy chế của cơ quan, tổ chức hoặc nội quy phiên toà.

III. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO VĂN HÓA PHÁP LUẬT CHO PHÓNG VIÊN

1. Về phía chủ quan(từ nhiệm vụ của báo chí và trách nhiệm của người phóng viên )

Một là, báo chí và nhà báo có trách nhiệm, cũng như có các quyền, nghĩa vụ liên quan rất nhiều đến pháp luật. Theo LBC hiện hành, trong lĩnh vực luật pháp báo chí có các nhiệm vụ “Tuyên truyền phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ tr.ương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước”. ”Đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác”. Bên cạnh đó, các phóng viên có nghĩa vụ ”Bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phát hiện, bảo vệ nhân tố tích cực; đấu tranh phòng, chống các tư tưởng, hành vi sai phạm”.

Hai là, kiến thức pháp luật, ý thức pháp luật của các phóng viên, nhìn chung còn thấp và không đồng đều. Như đã trình bày ở phần thực trạng, nhu cầu về kiến thức pháp luật các báo không giống nhau giữa các báo chuyên luật và không chuyên luật. Hơn nữa, các phóng viên được đào tạo từ các nguồn khác nhau, do vậy kiến thức pháp luật của họ không đồng đều, và nhìn chung là còn thấp so với đòi hỏi của tình hình.

Ba là, hành vi xử sự hợp pháp của các phóng viên trong tác nghiệp báo chí cũng như trong đời sống cũng còn không ít điều khiếm khuyết, bất cập. Những bất cập thì có nhiều nhưng tựu trung lại ở hai điểm: 1.Chưa thực hiện tốt những nghĩa vụ, trách nhiệm do pháp luật yêu cầu đối với một nhà báo; 2.Không bảo vệ được những quyền, lợi ích hợp pháp của một nhà báo do pháp luật quy định.

2. Về phía khách quan(do yêu cầu của đất nước, của thời cuộc), có hai lý do chính sau:

– Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 , định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị) và Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị). Nhà báo nói chung và phóng viên nói riêng là những ngườ “tuyên truyền tập thể”, ”cổ động tập thể”, “những chiến sĩ xung kích” trên mặt tư tưởng, nên không thể không nắm vững những chủ trương đó, quan trọng hơn, góp phần thực hiện các chiến lược đó.

Đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng nhiều mặt vào đời sống thế giới, ngoài việc hội nhập kinh tế, còn có hội nhập về văn hoá, trong đó có văn hoá pháp luật. Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức thế giới, đã tham gia, phê chuẩn nhiều công ước quốc tế, nhất là gần đây đã là thành viên của Tổ chức kinh tế thế giới (WTO). Vì vậy, ngoài việc nắm vững luật trong nước, phóng viên còn phải ít nhiều hiểu thiết những chuẩn mực có tính nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Ví dụ, khi nghiên cứu viết bài có liên quan đến “quyền con người” không thể không biết “Tuyên ngôn về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc” và hai Công ước cơ bản về “các quyền chính trị, dân sự” và “các quyền về kinh tế, văn hoá xã hội” năm 1966. Tương tự khi viết về WTO không thể không có kiến thức ít nhiều về tổ chức và hoạt động của định chế thương mại quốc tế lớn này. Đối với các phóng viên Việt Nam công tác ở nước ngoài, thì ngoài việc phải tuân theo và nắm vững pháp luật của nước sở tại, còn phải hiểu rõ phong tục, tập quán, lịch sử, văn hoá của nước đó.

IV. GIẢI PHÁP NÂNG CAO VĂN HOÁ PHÁP LUẬT CHO PHÓNG VIÊN

Trình độ văn hoá pháp luật của người phóng viên là sự gặp gỡ, giao thoa, chuyển hoá, thăng hoa giữa ý thức chủ quan của người phóng viên với môi trường, đời sống pháp luật khách quan, đa dạng. Người phóng viên thấy rõ được vai trò của pháp luật, có ý thức trong việc tích lũy kiến thức pháp luật, lại được cọ sát nhiều với thực tế pháp luật thì họ sẽ có một trình độ văn hoá pháp lý nhất định. Mặt khác, một môi trường định hướng pháp luật tốt sẽ giúp người phóng viên ngày một nâng cao trình độ văn hoá pháp luật của mình. Như vậy, để phát triển, nâng cao văn hoá pháp luật cho phóng viên, thiết nghĩ, phải có những giải pháp đồng bộ.

1. Đối với người phóng viên

Trước hết, làm sao để người phóng viên nhận thức rõ được rằng pháp luật có vai trò cực kỳ quan trọng trong quản lý xã hội và cũng hữu dụng với chính tác nghiệp của họ. Pháp luật và báo chí, tuy hoạt động theo thế mạnh của từng loại hình, song đều nhằm tác động tới các quan hệ xã hội. Nếu như báo chí chủ yếu là phản ánh, lý giải các biện tượng, quan hệ xã hội, định hướng dư luận xã hội thì chức năng chính của pháp luật là địa, chỉnh các quan hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước, nhìn chung cũng là ý mí của nhân dân. Như vậy, giữa pháp luật và báo chí, truyền thông có mối quan hệ qua lại, theo hướng: pháp luật giúp cho báo chí tuyên truyền phản ánh có định hướng rõ ràng, phân biệt được cái sai, cái đúng, cái chuẩn mực và chưa chuẩn mực, còn báo chí giúp cho pháp luật dễ dàng đi vào đời sống, tăng thêm tính khả thi, xây dựng được thói quen ”sống làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Người phóng viên, nhất là những phóng viên mảng chính trị – pháp lý, không có một trình độ văn hoá pháp luật nhất định thì họ chẳng những không thể hoàn thành tốt được nhiệm vụ của nhà báo, mà cũng không thể tự bảo vệ tốt được chính bản thân mình. Thực tiễn đã cho thấy, không ít phóng viên trong khi tác nghiệp đã bị cản trở, xúc phạm, thậm chí bị hành hung[1].

Thiết nghĩ, đây là điều quan trọng đầu tiên thuộc về chủ thể, bởi vì người ta chỉ quan tâm đến những gì mà người ta cho là quan trọng và thiết thân với họ. Khi đã nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của việc trang bị kiến thức pháp luật thì người phóng viên sẽ tìm mọi cách để tiếp cận pháp luật ở mọi nơi, mọi lúc. Có kiến thức pháp luật có ý thức tuân thủ pháp luật, thì xử sự của phóng viên sẽ gương mẫu, hợp pháp luật, các tác phẩm báo chí của họ cũng sẽ có những phân tích sâu sắc về mặt pháp lý, đồng thời những sai sót về mặt thuật ngữ chuyên ngành cũng sẽ được giảm thiểu tới mức thấp nhất.

2. Đối với cơ quan có chức năng trực tiếp quản lý báo chí

Cần tạo mọi điều kiện, cũng như môi trường, để cho phóng viên có thể nâng cao trình độ văn hoá pháp luật của họ. Đó có thể là: Tiến hành khảo sát, điều tra về trình độ văn hoá pháp luật của phóng viên nói chung và của phóng viên chuyên về mảng pháp luật nói riêng. Việc điều tra, phân loại này nhằm đánh giá thực trạng trình độ pháp luật của phóng viên để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho họ. Các tiêu chí để đánh giá, phân loại có thể bao gồm những vấn đề như: thời gian được đào tạo (nhiều hay ít); địa chỉ đào tạo (trường, khoa, chính quy hay lớp bồi dưỡng); sự quan tâm cá nhân đến pháp luật (nhiều hay ít, quan trọng hay không quan trọng); môi trường hoạt động có liên quan đến pháp luật (nhiều hay ít); số bài viết có liên quan đến pháp luật pháp đình…

– Thường xuyên sơ, tổng kết để đưa ra những nhận xét, nhận định về hoạt động của phóng viên chuyên về pháp luật-pháp đình trong những đợt tuyên truyền, phổ biến những văn bản pháp luật quan trọng có liên quan đến số đông dân chúng, như các luật về đất đai, xây dựng, giao thông, thuế, bản quyền tác giả… Trên cơ sở “khen”, “chê” mà định hướng và uốn nắn những sai sót, nếu có.

-Mở lớp bồi dưỡng kiến thức pháp lý cho các phóng viên, hoặc là thực hiện các báo cáo chuyên đề về văn bản pháp luật mới ban hành. Tất nhiên là, cần phải phân loại về nhu cầu của phóng viên đối với pháp luật mà có các chuyên đề thích hợp. Đối với các phóng viên chuyên về pháp luật, pháp đình có thể tổ chức chó đi học lớp cơ bản về luật, nếu có điều kiện.

– Các cơ quan chức năng cần cài đặt những phần mềm vi tính, mở cổng điện tử… để phóng viên có thể dễ dàng cập nhật được các văn bản pháp luật mới ban hành.

3. Đối với Hội nhà báo Việt Nam

Là tổ chức nghề nghiệp của giới báo chí, trong khi thường xuyên tiến hành việc hồi dưỡng, giáo dục cho các hội viên những “Quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam”, Hội nhà báo Việt Nam cần nhấn mạnh đến các điểm 4, 5 , 6 có liên quan đến pháp luật, mà người làm báo nguyện thực hiện. Hiện nay “VJA Online – hấp:hoinhabaovietnam.org.vn” của Hội nhà báo Việt Nam đã có mục về “văn bản”. Điều này rất cần thiết và bổ ích đối với giới báo chí. Tuy nhiên, cần cập nhật đầy đủ hơn những văn bản mới ban hành của Nhà nước, nhất là những văn bản có phạm vi, đối tượng điều chỉnh rộng lớn trong xã hội.

Đồng thời, Hội nhà báo cũng cần phải tham gia tích cực, góp tiếng nói thực sự có trọng lượng trong việc bổ sung, sửa đổi cơ bản Luật Báo chí hiện hành. Bên cạnh đó, Hội cũng cần lên tiếng kịp thời, mạnh mẽ trước các hành vi cản trở, thoá mạ, hành hung phóng viên nhà báo trong khi họ tác nghiệp hợp pháp, cũng như có những quan điểm cụ thể, rõ ràng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhà báo trong các vụ xử lý hành chính hoặc các vụ án, mà các nhà báo là đương sự, bị can, bị cáo.

4. Đối với cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước

Để thuận lợi cho hoạt động báo chí, cũng như để bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân và xã hội, trước hết, các cờ quan nhà nước có thẩm quyền cần nghiên cứu hoàn thiện những quy định pháp luật về báo chí nói riêng và về thông tin, truyền thông nói chung, nhằm tạo dựng một hành lang pháp lý an toàn cho tác nghiệp của phóng viên, cụ thể là: Cần kịp thời nghiên cứu sửa đổi, bổ sung toàn diện Luật Báo chí năm 1989. Tuy Luật Báo chí đã được Quốc hội sửa đổi, bổ sung vào tháng 6/1999 nhưng cho đến nay, sau gần mười năm thực hiện, đã bộc lộ nhiều thiếu sót, bất cập. Hiện đã có Dự án Luật Báo chí sửa đổi lần thứ 10, trong đó đã có nhiều quy định đầy đủ hơn, chi tiết hơn, rõ ràng hơn. Tuy nhiên, trong đó vẫn còn một số vấn đề chưa được đề cập hoặc chưa được chú ý quan tâm đúng mức, đáng chú ý như:

+ Những quyền và nghĩa vu của báo mí và của nhà báo cần phải được quy định thật cụ thể, hướng dẫn thật rõ ràng, nhất là các vấn đề như “cải chính”, “những điều không được thông tin trên báo”, thế nào là “bí mật đời tư ‘, “có tính chất kích dâm”, “thiếu thẩm mỹ…

Báo chí có “quyền phản biện” không hay chỉ là diễn đàn rộng lớn nói chung? Nếu có, cũng cần được quy định rõ. Đồng thời, cũng phải quy định rõ “trách nhiệm giải trình” những vấn đề báo chí nêu, trong đó có vấn đề chế tài nếu người có trách nhiệm không giải trình, hoặc giải trình sai .

+ Địa vị pháp lý của nhà báo cũng cần được xác định rõ: khi tác nghiệp, nhà báo có là (hoặc coi như là) công chức, viên chức nhà nước thi hành công vụ không? Và, như vậy, trong khi tác nghiệp mà nhà báo bị cản trở, bị xúc phạm, hành hung thì có coi những hành vi này là “chống lại người thi hành công vui không? Mặt khác, nếu nhà báo là cán bộ, công chức nhà nước thì về nguyên tắc họ “chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép”, còn nếu không là công chức thì họ có thể “làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm”.

+ Về việc cung cấp thông tin: thông tin là sự sống còn của báo chí, là công cụ chủ yếu để báo chí thực hiện mục đích của mình. Luật Báo chí hiện hành, cũng như dự án Luật sửa đổi đều quy định các tổ chức trong phạm vi quyền hạn, nhiệm. vụ của mình có quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin cho báo chí. Cho đến gần đây, những quy định này mới được Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí, ban hành kèm theo Quyết định số 77/20071QĐ-TTg ngày 28/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ, cụ thể hoá. Căn cứ vào Quy chế, các Bộ, ngành, tỉnh đã ban hành quy chế riêng cho cơ quan mình. Mục tiêu của Quy chế là các cơ quan hành chính nhà nước phải có trách nhiệm công bố thông tin cũng như tạo điều kiện để cho báo chí tiếp cận thông tin nhằm minh bách hóa, chuẩn hoá hoạt độn g quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên, thực tế thực hiện Quy chế đã bộc lộ mặt trái của nó, cụ thể như:

* Hiểu không đúng về “người phát ngôn”, nên đã có hiện tượng quá quan trọng hoá vai trò của người phát ngôn, coi người phát ngôn là người duy nhất trong cơ quan, tổ chức có quyền cung cấp thông tin[2]2. Trong khi đó, theo tinh thần Quy chế thì người phát ngôn chỉ phát biểu những “thông tin chính thống”, tức là những thông tin thiên về chủ trương, chính sách liên quan đến quản lý nhà nước của Bộ, ngành, địa phương, chứ không có nghĩa là bất cứ một việc gì, lĩnh vực gì cũng phải qua người phát ngôn, hoặc cũng phải chờ được sự đồng ý của Bộ trưởng hoặc của Chủ tịch tỉnh, thành phố…

* Quy chế, cũng như dự án Luật Báo chí sửa đổi đều quy định về việc tổ chức, cơ quan, người phát ngôn “phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung của thông tin đã cung cấp, . Tuy nhiên, trách nhiệm cụ thể như thế nào, có chế tài không, nhất là trong trường hợp cung cấp thông tin sai hoặc khước từ việc cung cấp thông tin trái pháp luật.

* Nên đưa quy chế người phát ngôn vào Luật Báo chí sửa đổi, để tránh việc né tránh, đùn đẩy trách nhiệm cung cấp’ thông tin, cũng như nêu cao trách nhiệm của người phát ngôn, cung cấp thông tin.

+ Về việc đăng ảnh cá nhân: giữa Bộ luật Dân sự (Điều 3 1 ) và Nghị định 5 1 (Điều 5) có sự vênh nhau về sử dụng ảnh cá nhân. Nhìn chung, Nghị định 51 “thoáng hơn” so với quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005, vậy có thể hiểu những quy định trong Nghị định 51 là những “quy định khác” không? Có một nguyên tắc trong việc áp dụng pháp luật, đó là: nếu có sự “vênh” nhau giữa luật chung và luật chuyên ngành, thì áp dụng luật chuyên ngành. Trong trường hợp này, Bộ luật Dân sự là luật chung, còn Luật Báo chí là luật chuyên ngành, vậy, nếu áp dụng những quy định trong Nghị định hướng dẫn Luật Báo chí có được không? Luật Báo chí lần này cũng còn phải tính đến nhiều vấn đề khác, như cần định nghĩa rõ thế nào là “ảnh cá nhân” và thế nào là vì lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng”. Báo chí có quyền đăng ảnh các buổi xét xử công khai của Toà án, những người phạm tội trong những vụ trọng án đã bị tuyên án, thế còn ảnh những người chưa bị tuyên án, nhưng đã bị khởi tố bắt tạm giam thì xử lý thế nào? Vả lại, thế nào là “các vụ trọng án”? Báo chí chỉ được đăng ảnh quang cảnh phiên toà hay được đăng ảnh đặc tả chân dung bị can, bị cáo? Các vụ án hình sự đã vậy thế còn các vụ án khác như dân sự; lao động, hôn nhân gia đình… thì sao?

– Cần xây dựng Luật về tiếp cận thông tin. Luật Tiếp cận thông tin là để cụ thể hoá quyền tự do thông tin, một thứ quyền luôn luôn song hành với quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí. Quyền tự do thông tin là một nội dung quan trọng của quyền con người được ghi nhận tại Điều 19 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948: ”Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận cò bày tỏ ý kiến. Quyền này bao gồm quyền tự do giữ quan điểm mà không bị can thiệp, và tự do tìm kiêm, tiếp nhận và chia sẻ các thông và thông tin bằng bất kỳ phương tiện nào là không có biên giới”. Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, tại Điều 19 cũng tuyên bố những nguyên tắc tương tự. Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) trong “Tuyên bố về các nguyên tắc cơ bản liên quan đến sự đóng góp của các phương tiện thông tin vào việc tăng cường hoà bình và hiểu biết quốc tế vào việc thúc đẩy nhân quyền và chống phân biệt chủng tốc, chủ nghĩa A-pac-thai và sự kích động chiến tranh”, thông qua năm 1978 , cũng đã ghi nhận:

“Việc thực hiện quyền được tự do ngôn luận, biểu đạt ý kiến và thông tin, được công nhận như một phần tất yêu cửa các quyền con người và tự do cơ bản, là một nhân tố sống còn trong việc tăng cường hoà bình và hiểu biết quốc tế (Điều 2 khoản 1 ) và ”Việc tiếp cận thông tin của công chứng cần được bảo đảm bởi sự đa dạng về nguồn và phương tiện thông tin hiện có, cho phép mỗi cá nhân kiểm chứng tính chính xác của thực tế và đánh giá các sự kiện một cách khách quan. Vì mục đích này, các nhà báo phải có quyền tự do thông tin và các điều kiện thuận lại nhất trong phẩm là có thể để tiếp cận không tin”. (Điều 2 khoản 2). Nếu các phương tiện thông tin được đặt đúng vị trí để thúc đẩy các nguyên tắc của Tuyên bố này cá phương tiện thông tin trong nước hay nước ngoài phải tin chối rằng họ được bảo vệ và bảo đảm cho họ những điều kiện tốt nhất đi nhựa kiện nghề nghiệp của mình ” (Điều 2 khoản 4). ”Để tuyên bố này có hiệu lực đầy đủ vì sự tôn trọng các quy định lập pháp và hành pháp và các nghĩa vụ khác của các trượt thành viên, cần thiết phải bảo đảm sự tồn tại của các điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động của các phương tiện thông tin phù hợp với các quy định của Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền và các nguyên tắc tương ứng được nêu trong Công ước về các quyền dân sự và chính trị được Đai hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1966 ” (Điều 11).

Luật về tiếp cận thông tin cụ thể hoá quyền tự do tiếp cận thông tin của cơ quan, tổ chức, công dân điều 69 Hiến pháp năm 1992) và trách nhiệm của cơ quan công quyền trong việc cung cấp thông tin. Trong khi tạo điều kiện cho việc tiếp cận thông tin, Luật góp phần công khai và minh bạch hóa trong quản lý hành chính nhằm đảm bảo tính hiệu quả, cạnh tranh và phát triển, ngăn ngừa đặc quyền, đặc lợi của những người có điều kiện hay vị trí công tác.

Trong bối cảnh mở cửa, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, yêu cầu về công khai, minh bạch trong quá trình, thủ tục ban hành các quyết định hành chính cũng như công khai các kết quả hoạt động của các cơ quan công quyền là một trong những yêu cầu của của WTO. Do vậy, để tăng cường tính minh bạch và tính trách nhiệm của các cơ quan công quyền, đặc biệt là các cơ quan hành chính nhà nước, cần thiết phải ban hành Luật về tiếp cận thông tin, trong đó có thể chứa đựng những nội dung cơ bản như: quy định những loại thông tin, tài liệu nào cần được công khai; những loại nào cần bí mật; quy định quy trình cung cấp thông tin, tiếp cận và khai thác thông tin, chi phí cho việc khai thác thông tin; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc cung cấp thông tin. Như vậy, Quy chế phát ,ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí, về một mặt nào đó; cũng có thể là một trong những nội dung của Luật Tiếp cận thông tin.

– Cần nghiên cứu sửa đổi Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước ngày 28/12/2000 cho phù hợp với thời mở cửa và hội nhập, cũng như tương thích với các chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực này. Vì một trong những trách nhiệm của báo chí và của nhà báo là “sử dụng các văn kiện của cơ quan Đảng và Nhà nước, tài liệu của các tổ chức phải theo đúng những quy định trong pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước ngày 28/12/2000”.

Đồng thời với việc tạo hành lang pháp lý cũng Phải tuân thủ những quy định của pháp luật nhà nước, nếu có vi phạm, thì tuỳ theo mức độ, cũng cần phải được xử lý với các hình thức như cải chính, cách chức, tước thẻ nhà báo, bồi thường thiệt hại, chỉ những vi phạm nào gây hậu quả đặc biệt nghiệm trọng mới xử lý hình sự.

Cần tạo điều kiện để các phóng viên dễ dàng tiếp cận với các cơ quan tư pháp trong khi hành nghề. Nghị định 51 đã cụ thể hoá Luật Báo chí tại khoản 3 Điều 8 về quyền của nhà báo: ”Được hoạt động nghiệp vụ lấy tin, chụp ảnh, quay phim, ghi âm tại các viên toà xét xu công khai, được dành chỗ ngồi riêng, được liên lạc trực tiếp với các Thẩm phán, Luật sư của LVN Group để lấy tin, phỏng vấn theo quy định của pháp luật”. Điều luật quy định thế, nhưng thực tế thì không phải cơ quan Toà án nào, hoặc vị Thẩm phán nào, cũng tạo điều kiện cho phóng viên dễ dàng hành nghề (chụp ảnh, quay phim, ghi âm), lấy tin, hoặc trả lời phỏng vấn. Cũng như đối với việc đăng ảnh cá nhân, ảnh phiên toà, những vấn đề này, thiết nghĩ, cũng cần phải được cụ thể hoá bằng một văn bản liên tịch giữa Bộ Thông tin – Truyền thông và Toà án nhân dân tối cao.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

1. Dương Xuân Sơn. Đinh Văn Hường, Trần Quang: Cơ sở lý luận báo chí truyền thông Nxb. Văn hoá-thông tin, 1995.

2. Nguyễn Uyển: Báo chí nghề nghiệt ngã, Nxb Văn hóa – thông tin, 1998.

3. Hữu Thọ, Công việc của người viết báo, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2000

4. Bùi Ngọc Sơn, Xây dựng nhà nước pháp quyền trong bối cảnh văn hóa Việt Nam, Nxb. Tư pháp, 2004.

5. Lê Đức Tiết: Văn hóa pháp lý Việt Nam. Nxb. Tư pháp, 2005.

6. Trần Quốc Phú, Văn hóa pháp đình, Nxb. Tư pháp, 2006.

7. Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người, Trung tâm nghiên cứu quyền con người, 2002.

[1]Đơn cử một đôi vụ xảy ra gần đây: tối ngày l4/7/2008: tại một buổi dạ tiệc Ở Diamond Bay (Nha Trang), phóng viên Minh Quốc (Báo ảnh Việt Nam) đã bị con rể bà Trần Thị H., Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Hoàn Cầu, người được coi là có công tổ chức Thi Hoa hậu hoàn vũ năm 2008 (Mìss Universe Việt Nam) đấm chảy máu mũi. giật thẻ nhà báo và dùng lời nhục mạ trong khi hành nghề. Cuối tháng 7/2008 một Thượng tá Đội trưởng CT 408 – QK9 đã đập vỡ máy ảnh của một phóng viên báo Tiền phong khi phóng viên này định chụp ảnh cảnh đang ăn nhậu lớn tiếng của nhóm các sĩ quan quân đội tại một nhà hàng ở TP. Cà Mau; ngày 6/8/2008, một phóng viên chuyên chống tiêu cực báo Khánh Hoà đã bị kẻ côn đồ rình đâm ngay trước của Toà soạn báo mình…

[2]Chẳng hạn báo chí đã nêu trường hợp Quy chế của Thanh tra Chính phủ, ban hành ngày 26/9/2007, quy định cán bộ. công chức được báo chí đề nghị trả lời phỏng vấn thì người đó phải báo cáo xin phép Tổng thanh tra bằng văn bản, trong đó ghi rõ nội dung phỏng vấn và chỉ được trả lời phỏng vấn sau khi được Tổng thanh tra đồng ý.Còn Quy chế của Bộ Xây dtrng ban hành ngày 29/10/2007, quy định lãnh đạo đơn vị hoặc công chức phải báo cáo Bộ trưởng về nội dung được báo chí phỏng vấn và chỉ trả lời sau khi Bộ trưởng đồng ý.

PGS, TS Phạm Công Trứ – Bộ Tư pháp(Nguồn: Tạp chí Nhà nước và pháp luật)

(Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)