2. 2. Lừa dối
Quy định này cho thấy, trong sự đối chiếu với Điều 131 của Bộ luật Dân sự 2005, phạm vi được xác định rộng hơn bao gồm cả sự nhầm lẫn của một bên về chủ thể, đối tượng và nội dung của hợp đồng do bên kia cố ý gây nên. Giải thích cho vấn đề này, từ trước kia Vũ Văn Mẫu giải thích: đối với lừa dối vì là một sự nhầm lẫn do đối phương gây nên, do đó nhà làm luật chấp nhận tì ố này một cách không hạn chế bởi cần bảo vệ ý chí của người bị người khác lừa hơn là ý chí của người tự làm mình nhầm lẫn1. Các quy định vừa dẫn tại Điều 132, Bộ luật Dân sự 2005 có sự khác biệt về quan niệm lừa dối so với các quy định của Bộ luật Dân sự Pháp và của các Bộ luật Dân sự Việt Nam ở các chế độ cũ. Bộ luật Dân sự Pháp quy định:
>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoạigọi: 1900.0191
“Sự lừa dối là căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu khi các thủ đoạn do một bên đã thực hiện mà nếu không có các thủ đoạn đó thì bên kia đã không ký kết hợp đồng.
Sự lừa dối không được suy đoán mà phải được chứng minh” (Điều 1116).
Quan niệm như vậy, Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ qui định: “Khi nào có một bên lập mưu đánh lừa bên kia, đến nỗi giá không có mưu đó bên kia không giao – ước, thì sự đánh lừa đó là một duyên – cớ làm cho hiệp – ước vô – hiệu” (Điều thứ 659). Các quy định này được nhắc lại nguyên văn tại Điều thứ 695, Bộ luật Dân sự Trung Kỳ. Nhưng Bộ luật Dân sự 1972 được diễn giải lại với nội dung tương tự như sau: “Sự gian trá chỉ là một nguyên nhân là cho khế ước vô hiệu nếu những mưu gian, chước dối của một bên là nguyên nhân chính đã thúc đẩy bên khi kết ước” (Điều thứ 668).
Như vậy có thể thấy, khác với các quy định của Bộ luật Dân sự 2005, các quy định của Bộ luật Dân sự Pháp và của các Bộ luật Dân sự Việt Nam dưới các chế độ cũ đã không xác định phạm vi của lừa dối và thu hẹp điều kiện liên quan tới người trong việc xác định lừa dối. Lý do của việc mở rộng phạm vi của lừa dối đã được diễn giải ở trên. Nhưng nguyên nhân của việc thu hẹp các điều kiện của lừa dối có thể tìm thấy trong gợi ý của Vũ Tam Tư. Ông cho rằng, Luật La Mã coi tố quyền về sự lừa dối là một tố quyền phụ, chỉ có thể hành xử khi sự lừa dối xuất phát từ người đối ước, chứ không do một người thứ ba, và các quan niệm này đã được Bộ luật Dân sự Pháp kế thừa2.
Common Law có khái niệm “biểu lộ sai sự thật” (misrepresentation) được hiểu là một khái niệm của luật hợp đồng diễn đạt sự tuyên bố sai về thực tế được một bên đưa tới bên kia mà khiến bên kia giao kết hợp đồng3. Biểu lộ sai sự thật có tố quyền được chia thành ba loại là: (1) Biểu lộ sai sự thật không gian trá (innocent misrepresentation or nonfraudulent misrepresentation); (2) biểu lộ sai sự thật do vô ý nghiêm trọng (negligent misrepresentation); và (3) biểu lộ sai sự thật do gian trá (fraudulent misrepresentation)4.
Các điều kiện của lừa dối đã được Bộ luật Dân sự Pháp, và các Bộ luật Dân sự Việt Nam dưới các chế độ cũ, cũng như Bộ luật Dân sự 2005 xác định liên quan đến người lừa dối, người bị lừa dối và tính chất của sự lừa dối. Bộ luật Dân sự Pháp và các Bộ luật Dân sự Việt Nam dưới các chế độ cũ dường như không xem xét tới việc lừa dối được thực hiện bởi người thứ ba. Có thể nhà làm luật cho rằng việc lừa dối do người thứ ba thực hiện không phải là căn cứ làm hợp đồng vô hiệu, mà chỉ là căn cứ yêu cầu người thứ ba bồi thường thiệt hại5. Trong khi đó, Bộ luật Dân sự 2005 quy định cả trường hợp người thứ ba thực hiện hành vi lừa dối và xem đó cũng là căn cứ vô hiệu hoá hợp đồng. Có lẽ các qui định tại Điều 132, Bộ luật Dân sự 2005 đã đi theo khuynh hướng của Bộ luật Dân sự Đức và Bộ luật Dân sự Nhật Bản, có nghĩa là xuất phát từ phương diện chủ quan để xác định việc biểu lộ ý chí có thể không có giá trị ràng buộc người biểu lộ, nếu sự biểu lộ ý chí đó được lập ra do bị lừa dối từ bất kỳ ai. Bộ luật Dân sự Đức quy định:
“(1) Bất kỳ ai đã bị lôi cuốn lập ra một sự biểu lộ ý chí bởi lừa dối hoặc bởi đe doạ bất hợp pháp có thể huỷ bỏ sự biểu lộ ý chí đó.
(2) Nếu một người thứ ba có lỗi lừa dối, thì sự biểu lộ ý chí mà đã được yêu cầu lập ra đối với người khác có thể bị huỷ bỏ chỉ khi người nói tới sau đã biết hoặc nhẽ ra phải biết về sự lừa dối. Trong chừng mực một người, khác hơn người mà sự biểu lộ ý chí đã được yêu cầu lập ra, đã thủ đắc trực tiếp một quyền thông qua sự biểu lộ ý chí đó, thì sự biểu lộ ý chí đó có thể bị huỷ bỏ khi chống lại người này nếu người này đã biết hoặc nhẽ ra phải biết về sự lừa dối đó” (Điều 123).
Theo cách thức và nội dung của các quy định này, Bộ luật Dân sự Nhật Bản diễn giải có đôi chút khác biệt như sau:
“Điều 96.
Sự biểu lộ ý chí bị lôi cuốn bởi lừa dối hoặc đe doạ có thể bị huỷ bỏ.
2. Nếu một người thứ ba đã có lỗi lừa dối đối với sự biểu lộ ý chí được lập tới một người, thì sự biểu lộ ý chí đó có thể bị huỷ bỏ chỉ trong các trường hợp khi bên khác đó đã biết về sự kiện đó.
3. Một biểu lộ ý chí đã bị lôi cuốn bởi lừa dối không thể bị huỷ bỏ chống lại người thứ ba ngay tình”.
Việc dẫn ra các quy định này của Bộ luật Dân sự Đức và của Bộ luật Dân sự Nhật Bản cùng với các phân tích ở trên cho thấy, Bộ luật Dân sự 2005 một đằng theo phương diện khách quan quy định một cách tích hợp các điều kiện có hiệu lực của giao dịch vào một điều khoản và diễn giải chúng cùng các nguyên nhân vô hiệu của giao dịch gần với cách thức của Bộ luật Dân sự Pháp, nhưng đằng khác lại qui định các điều kiện của lừa dối theo phương diện chủ quan gần với Bộ luật Dân sự Đức và Bộ luật Dân sự Nhật Bản. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng chương nói về giao dịch dân sự của Bộ luật Dân sự 2005 qui định chung cho cả hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương, do đó nhẽ ra phải xuất phát từ việc biểu lộ ý chí hơn là xuất phát từ việc phân tích quan hệ giữa các bên tham gia giao dịch. Việc xuất phát từ việc phân tích quan hệ giữa các bên tham gia giao dịch có lẽ phù hợp hơn đối với hợp đồng. Như vậy có thể nói, Bộ luật Dân sự 2005 chưa nhất quán trong cách thức tiếp cận vấn đề.
Các nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế 1994 và 2004 tỏ ra đồng nhất trong việc xác định các điều kiện của lừa dối liên quan tới người. Điều 3.8 quy định: “Một bên có thể huỷ bỏ hợp đồng khi đã bị dẫn dắt giao kết hợp đồng bởi sự biểu lộ dối trá của bên kia, kể cả ngôn ngữ hoặc hành động, hoặc không biểu lộ có tính chất gian trá các chi tiết mà, phù hợp với các tiêu chuẩn thương mại hợp lý về thiện chí, bên này nhẽ ra phải biểu lộ”. Unidroit cho rằng việc huỷ bỏ hợp đồng căn cứ vào lừa dối tương đồng với việc huỷ bỏ hợp đồng đối với một dạng nào đó của nhầm lẫn, và sự phân biệt giữa lừa dối và nhầm lẫn nằm ở bản chất và mục đích của sự biểu lộ hoặc không biểu lộ của bên lừa dối6. Các quy định của Unidroit vừa dẫn cho thấy sự giống với các quy định của Bộ luật Dân sự Pháp và của các Bộ luật Dân sự Việt Nam dưới các chế độ cũ về điều kiện của lừa dối liên quan tới người, nhưng có khác nhau phần nào ở điều kiện liên quan tới bản chất của lừa dối. Đặc biệt các quy định của Unidroit có đề cập tới các dạng thức của hành vi lừa dối giống phần nào với nhận thức của Common Law, tức là hành vi lừa dối có thể ở dạng hành động và không hành động. Paul Latimer cho rằng: Biểu lộ sai sự thật có thể thực hiện bằng dạng không hành động nếu nó bóp méo sự biểu lộ đã được lập ra, và có thể có hậu quả pháp lý ảnh hưởng đến một tuyên bố trước, nếu tuyên bố được đưa ra là một nửa sự thật; nếu tuyên bố là sự thật nhưng trở nên sai trước khi hợp đồng được giao kết; nếu có quan hệ uỷ quyền giữa các bên; hoặc nếu hợp đồng là một hợp đồng thiện chí tối đa7.
Mặc dù Bộ luật Dân sự Pháp quy định sự lừa dối phải do một bên của hợp đồng lập ra để dẫn dắt bên kia tới chỗ giao kết hợp đồng, và nếu không có sự lừa dối đó thì bên kia không giao kết hợp đồng. Nhưng án lệ của Pháp đã có hai ngoại lệ cho điều kiện về người là sự góp phần của một bên với người thứ ba thực hiện sự lừa dối bên kia, và người thứ ba lừa dối liên quan tới các hợp đồng hảo tâm8.
Common Law quan niệm nếu một bên giao kết hợp đồng là kết quả của sự gian trá của bên kia, thì được xem như không có sự gặp gỡ của các ý chí, không có sự thoả thuận, và vì thế không có nghĩa vụ pháp lý. Các nước theo truyền thống pháp luật này xác định năm điều kiện của gian trá (fraud) là: (1) Người gian trá biểu lộ sai sự thật về một sự kiện có tính chất vật chất (material fact); (2) sự gian trá được người gian trá lập ra một cách có nhận thức; (3) người gian trá có ý chí lừa dối; (4) người bị gian trá tin cậy một cách thích đáng vào sự biểu lộ sai sự thật; và (5) sự gian trá gây thiệt hại cho người bị gian trá. Còn đối với biểu lộ sai sự thật không gian trá (innocent misrepresentation or nonfraudulent misrepresentation) không có điều kiện thứ hai và thứ ba nêu trên9. Lưu ý rằng: Một sự kiện có tính chất vật chất (material fact) trong điều kiện thứ nhất nêu trên được hiểu là một sự kiện mà, nếu được biết, nhẽ ra đã ảnh hưởng tới xét đoán của một hoặc nhiều bên trong giao dịch; trong tố quyền về gian trá, sự kiện có tính chất vật chất nhất thiết phải đủ quan trọng đối với sự việc mà một người bình thường nhẽ ra có thể tin tưởng vào nó; và sự kiện có tính chất vật chất không thể là ý nghĩ, lòng tin, sự dự đoán, hoặc sự suy đoán, và liên hệ một cách đặc thù tới một số vấn đề trong quá khứ hoặc hiện tại mà có thể chứng minh hoặc bác bỏ10.
Pháp luật Việt Nam đã từng có các quy định rất cụ thể liên quan tới hành vi biểu lộ sai sự thật không gian trá trong luật thương mại, kể cả bằng dạng không hành động, và xác định chế tài cho các hành vi đó. Chẳng hạn, Bộ luật Thương mại 1972 quy định về các biểu lộ trong chứng thư mua bán sản nghiệp thương mại như sau:
“Điều thứ 49. – Trong chứng thư chủ bán phải khai:
1) Tên họ chủ bán trước, ngày tháng lập chứng thư do đó mình đã mua được cửa hàng, tính chất của chứng thư này và giá mua các yếu tố vô hình, hàng hoá và dụng cụ.
2) Các ưu quyền và diễn áp mà cửa hàng phải chịu.
3) Số thương vụ mà chủ bán đã thực hiện được mỗi năm về ba năm khai thác chót vừa qua, hay từ ngày thủ đắc, nếu người bán khai thác chưa được ba năm.
4) Số lợi tức thương mại đã thực hiện được trong thời gian nói trên.
5) Giao kèo thuê mướn nơi đặt cửa hàng, ngày tháng lập giao kèo, thời hạn hưởng dụng, tên họ và địa chỉ của người chủ bất động sản hay là người nhượng giao kèo, nếu có.
Nếu trong chứng thư, các yếu tố ghi trên bị bỏ sót không khai, chủ mua có thể, nếu muốn, xin huỷ bỏ chứng thư đoạn mại trong thời hạn một năm kể từ ngày lập chứng thư.
Điều thứ 50.– Mặc dầu có kết ước trái lại, người bán vẫn phải chịu sự bảo đảm đối với người mua theo các điều kiện do Bộ dân – luật quy định về các lời khai của mình, trong trường hợp các lời khai nầy không được xác thật”.
Các điều luật này cho thấy sự đan xen của nguyên tắc tự do ý chí và nguyên tắc thiện chí trung thực, dù rằng chúng dường như đối lập.
2. 3. Đe doạ
Việc ép buộc trong giao kết hợp đồng chống lại tự do ý chí, do đó có thể xem như chưa có sự ưng thuận. Tuy nhiên cách thức tiếp cận vấn đề này có đôi chút khác nhau ở các nền tài phán, nhưng cùng chung mục đích.
Bộ luật Dân sự 2005 quan niệm “Đe doạ trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình” (Điều 132, đoạn 3). Các nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế 1994 và 2004 đều quy định cụ thể để có thể hiểu được về hành vi được xem là đe doạ đối với bên bị đe doạ với nội dung như sau:
“Một bên có thể huỷ bỏ hợp đồng khi đã bị dẫn dắt tới giao kết hợp đồng bởi sự đe doạ bất chính đáng của bên kia mà, đã xem xét tới hoàn cảnh, sự đe doạ đó là tức thời và nghiêm trọng để mặc bên bị đe doạ không có sự lựa chọn hợp lý. Cụ thể, đe doạ là bất chính đáng nếu hành động hoặc không hành động mà với nó một bên đã bị đe doạ tự nó đã là bất hợp pháp, hoặc việc đe doạ được sử dụng như một phương thức để đạt được việc giao kết hợp đồng là bất hợp pháp” (Điều 3.9).
Các quy định này xác định phạm vi và điều kiện của hành vi đe doạ là: (1) Các tác vi và bất tác vi phi chính đáng; (2) thực hiện tức thời và đủ nghiêm trọng xét theo hoàn cảnh; (3) khiến bên kia bị đe doạ, do đó dẫn tới việc giao kết hợp đồng. Unidroit giải thích rằng tác vi và bất tác vi được xem là bất chính đáng có hai trường hợp: Trường hợp thứ nhất, bản chất của chúng đã là bất hợp pháp (chẳng hạn sử dụng bạo lực để đạt được giao kết hợp đồng với người bị đe doạ); trường hợp thứ hai, bản chất của chúng là hợp pháp, nhưng được sử dụng cho mục đích bất hợp pháp (chẳng hạn khởi kiện một người chỉ nhằm mục đích buộc người đó phải giao kết hợp đồng với các điều kiện áp đặt)11. Có thể hiểu một người đã giao kết hợp đồng có thể huỷ bỏ hợp đồng nếu việc giao kết đó ngoài sự mong muốn của mình do có sự tác động có tính cách đe doạ ngay lập tức và đủ nghiêm trọng vào thời điểm giao kết bởi bất kỳ hành vi nào có mục đích giao kết hợp đồng với người bị tác động với các điều kiện áp đặt, bởi xuất phát từ nguyên tắc tự do ý chí, trường hợp này đã thiếu đi sự ưng thuận của người bị đe doạ, tức là người này đã không thể lựa chọn giữa giao kết hoặc không giao kết, giữa điều kiện này hoặc điều kiện khác, nhiều khi thiếu cả sự nhận thức của người bị đe doạ về cả bản chất pháp lý và các điều kiện của hợp đồng đã giao kết.
Luật La Mã coi bạo lực là việc người đối ước hoặc người thứ ba làm cho người đối ước kia sợ hãi mà giao kết hợp đồng. Do đó, người do sợ hãi mà giao kết hợp đồng có thể sử dụng hai loại tố quyền có tính cách hình sự hoặc dân sự. Tố quyền sợ hãi (actio metus) là tố quyền hình sự cho phép nạn nhân được bồi thường gấp bốn lần sự thiệt hại đã phải gánh chịu. Người bị bạo lực mà phải giao kết hợp đồng có thể xin hoàn lại đồ vật đã mất do sợ hãi12. Bộ luật Dân sự Pháp đã phản ánh phần nào các ý niệm này. Điều 132, Bộ luật Dân sự 2005 có các quy định rất gần gũi với các điều từ 111 đến 113 của Bộ luật Dân sự Pháp.
“Điều 111
Bạo lực đối với người giao kết hợp đồng là một căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu, dù bạo lực ấy được thực hiện bởi người thứ ba không phải là người được hưởng lợi ích do việc giao kết hợp đồng.
Điều 112
Được coi là có bạo lực khi nó gây ấn tượng đối với một người có lý trí bình thường và làm cho người đó lo sợ có thể bị một tổn thất nghiêm trọng đối với tính mạng hoặc tài sản của mình.
Cần chú ý đến tuổi tác, giới tính và hoàn cảnh của người đó.
Điều 113
Bạo lực là căn cứ làm hợp đồng vô hiệu không chỉ trong trường hợp bạo lực đối với bản thân người giao kết hợp đồng mà còn cả trong trường hợp bạo lực đối với vợ, chồng, tôn thuộc, ti thuộc của người đó”.
Mặc dù theo mô hình Pháp, nhưng Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ và Bộ luật Dân sự Trung Kỳ đã có sự phân biệt tương đối rõ giữa bạo lực về thể chất và bạo lực về tinh thần. Trường hợp bạo lực về thể chất (như cầm tay bắt ký hay thôi miên, hoặc cho uống rượu say rồi bảo ký) khiến người bị bạo lực mất ý chí tự chủ. Còn trong trường hợp bạo lực về tinh thần, thì người bị bạo lực không mất ý chí tự chủ13. Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ quy định về các vấn đề này như sau:
“Điều thứ 660: Khi nào một bên đương – sự bị cưỡng – ép bằng cách hành – hung hay cách doạ – nạt không thể chống lại được mà phải nhận ước, thì sự bạo hành đó làm mất hẳn sự đồng – ý.
Khi nào cách hành – hung doạ – nạt hay là sự nguy – hiểm không đến nỗi không chống lại được, nhưng cũng khiến cho người đương – sự phải giao – ước để tránh khỏi cái hại lớn hơn hoặc trực – tiếp ngay hoặc về sau này, thì sự bạo – hành đó chỉ là một duyên – cớ có thể bác được sự đồng – ý mà thôi.
Dẫu khi sự nguy – hiểm chỉ quan – hệ đến tài – sản mà không đến sinh – mệnh của người lập – ước, hay là cả khi quan – hệ đến tài – sản hoặc sinh – mệnh người khác, những điều trên cũng thi – hành được.
Điều thứ 661.- Nếu người đệ – tam mà sinh – mệnh hay tài – sản bị nguy – hiểm vì cách hành – hung hay doạ – nạt đó, lại là vợ chồng hay thân – thuộc người đương – sự , thì sự bạo – hành ấy bao giờ cũng coi như là trực đối với chính người đương – sự.
Còn người khác thì toà án tuỳ tình – trạng mà xét xem sự doạ – nạt đối với người ấy có ảnh – hưởng gì đến sự đồng – ý của người đương – sự”.
Các điều luật này cũng được ghi nhận lại với đầy đủ nội dung như vậy tại Điều thứ 696 và Điều thứ 697 của Bộ luật Dân sự Trung Kỳ. Còn Bộ luật Dân sự 1972 đã diễn giải lại các nội dung trên trong nhiều điều khoản và làm cho rõ ràng hơn. Vũ Văn Mẫu cho rằng các Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ và Bộ luật Dân sự Trung Kỳ chia bạo lực thành bạo lực thể chất và bạo lực tinh thần bởi xuất phát từ ý niệm bạo lực thể chất làm mất hẳn ý chí của người bị bạo lực, còn bạo lực tinh thần chỉ là một hà tì của sự ưng thuận14.
Khảo sát Bộ luật Dân sự Đức và Bộ luật Dân sự Nhật Bản, có thể thấy có rất ít quy định về bạo lực trong giao kết hợp đồng. Các Bộ luật này, trong mục nói chung về biểu lộ ý chí, chỉ qui định tại các điều tương ứng là Điều 123 và Điều 96 về sự vô hiệu của biểu lộ ý chí khi bị đe doạ, cùng với các quy định về sự vô hiệu của biểu lộ ý chí khi bị lừa dối. Giải thích cho các quy định ngắn gọn này nhiều luật gia Nhật Bản nói: đe doạ hay cưỡng ép là hành vi gây ra sự sợ hãi cho người khác bởi việc đưa ra tình huống gây hại cho người đó; và việc biểu lộ ý chí bởi sự đe doạ có nghĩa là việc biểu lộ ý chí không dựa trên ý chí thật nhưng để tránh thiệt hại mà sự sợ hãi liên hệ tới; và cần thiết bảo vệ người biểu lộ ý chí trong trường hợp này tới mức độ như bảo vệ trong trường hợp bị lừa dối, có nghĩa là trong trường hợp bị bạo lực, người biểu lộ ý chí có thể huỷ bỏ vô điều kiện sự biểu lộ ý chí đó mà không cần quan tâm tới người đối ước hay người thứ ba đe doạ; và sự huỷ bỏ như vậy có hiệu lực với cả người thứ ba ngay tình15. Tuy nhiên, cũng có những ý kiến ở Nhật Bản nghi ngờ về tính đúng đắn của quan niệm bảo vệ ở mức độ cao như vậy16.
Theo Konrad Zweigert and Hein Koetz, ở Common Law, thuật ngữ “cưỡng ép” (duress) có nghĩa hẹp chỉ trường hợp một người phải đưa ra một lời hứa bởi bị bạo lực về thể chất hay bị giam hãm, còn thuật ngữ “ảnh hưởng không chính đáng” (undue influence), phát triển dần dần bởi các toà án của luật công bình (Courts of Equity), được sử dụng trong trường hợp lợi dụng vị thế ảnh hưởng để buộc người khác giao kết hợp đồng mà đã được các Bộ luật Dân sự của các nước châu Âu lục địa nói tới trong khái niệm bạo lực17.
Cưỡng ép (duress) theo Common Law chỉ hành vi sử dụng bạo lực hoặc đe doạ sử dụng bạo lực, hoặc giam hãm (imprisonment) một bên hoặc cha mẹ, vợ chồng, con của bên đó nhằm mục đích buộc bên bị cưỡng ép phải chấp nhận các điều kiện hợp đồng ấn định. Khi xem xét cưỡng ép cần chú ý tới bốn yếu tố sau:
(1) Bạo lực không nhất thiết là thực tế mà có thể là đe doạ;
(2) Bạo lực hoặc đe doạ không nhất thiết phải thực hiện với người giao kết hợp đồng mà có thể thực hiện đối với vợ chồng, bố mẹ, con của người này;
(3) Bạo lực cũng có thể là việc giam hãm;
(4) Bạo lực có thể thực hiện bởi người thứ ba hành động dưới sự chỉ dẫn hay cho lợi ích của người cưỡng ép giao kết hợp đồng18.
Ảnh hưởng không chính đáng (undue influence) được luật công bình phát triển nhằm bảo vệ tự do ý chí trong trường hợp ý chí của người giao kết hợp đồng bị gây ảnh hưởng quá đáng mà không có sự đe doạ. Tuy nhiên, học thuyết của luật công bình về ảnh hưởng không chính đáng cực kỳ khó khăn trong việc xác định ranh giới mong manh giữa ảnh hưởng không chính đáng và sự thuyết phục đơn thuần. Người ta nhận thấy rằng ảnh hưởng không chính đáng thường xuất hiện ở những giao dịch liên quan tới chuyển nhượng tài sản không có khoản đối ứng hoặc khoản đối ứng không đầy đủ. Chẳng hạn, vụ Robertson v. RobertsonCommon law và học thuyết về ảnh hưởng không chính đáng của Equity đang trong tiến trình hợp nhất để giải quyết tất cả các trường hợp giao kết hợp đồng bị ép buộc bởi áp lực thể chất hoặc tinh thần mà pháp luật thường coi là không công bằng20. Như vậy, có thể thấy sự đồng nhất trong nhận thức của các truyền thống pháp luật về vấn đề bạo lực trong giao kết hợp đồng. (1930) người chồng doạ tố cáo sự thiếu chung thuỷ của vợ trừ khi bà ta chuyển nhượng cho ông bất động sản thuộc sở hữu của bà ta. Toà án tuyên hành vi đó là ảnh hưởng không chính đáng19. Theo Abdul Kadar, Ken Hoyle, Geoffrey Whitehead, học thuyết về cưỡng ép của
Trong truyền thống Civil law, người ta đã có dự liệu các trường hợp gây áp lực về tinh thần trong giao kết hợp đồng, và cũng đã xác định phạm vi của nó bằng các quy định loại bỏ một số trường hợp. Chẳng hạn, Bộ luật Dân sự Pháp quy định: “Chỉ riêng sự sợ hãi khép nép đối với cha, mẹ hoặc tôn thuộc khác mà không hề có bạo lực thì chưa đủ để huỷ hợp đồng” (Điều 1114). Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ và Bộ luật Dân sự Trung Kỳ đã mở rộng hơn các quyđịnh của điều luật này, và xem sự kính trọng như một hình thức của bạo lực21. Điều thứ 662 và Điều thứ 698 tương ứng của hai Bộ luật này quy định với nội dung như nhau:
“Thuộc về các trường – hợp bạo – hành thì toà án phải xem xét người đương – sự nhiều hay ít tuổi, đàn ông hay đàn bà, thân – thể tinh – thần thế nào, cùng địa – vị đối với nhau như thế nào.
Nhưng chỉ vì một sự kính sợ của vợ đối với chồng hay của con cháu đối với ông bà cha mẹ, thì không đủ làm cho hiệp – ước thủ – tiêu được”.
Nhưng Điều thứ 666, Bộ luật Dân sự 1972 quay lại nguyên theo quy định tại Điều 1114 của Bộ luật Dân sự Pháp.
Để xem xét tới vấn đề ép buộc trong giao kết hợp đồng cũng có thể xuất phát từ các phương diện hay các yếu tố khách thể, khách quan, chủ thể, và chủ quan như trong nghiên cứu cấu thành tội phạm ở luật hình sự.
Về khách thể, việc ép buộc giao kết hợp đồng xâm phạm tới quyền tự do ý chí của con người mà quyền này không chỉ được thừa nhận trong luật tư mà còn là quyền có tính cách hiến định.
Về khách quan, việc ép buộc thực hiện thông qua hành vi bất chính đáng dưới dạng sử dụng bạo lực hoặc đe doạ sử dụng bạo lực hoặc lợi dụng vị thế gây ảnh hưởng tác động vào ý chí của nạn nhân khiến họ không làm chủ được hành vi của mình. Hành vi bất chính đáng ở đây có thể là tác vi hoặc bất tác vi. Mục đích của việc tác động vào ý chí của nạn nhân là giao kết hợp đồng với nạn nhân. Hậu quả là nạn nhân phải giao kết hợp đồng ngoài ý muốn với các điều kiện đã ấn định ngoài sự lựa chọn của nạn nhân. Việc thực hiện hành vi ép buộc có thể do người giao kết hợp đồng với nạn nhân hoặc người thứ ba thực hiện.
Về chủ thể, người thực hiện hành vi ép buộc là bất kể ai có khả năng thực hiện hành vi không kể độ tuổi.
Về chủ quan, hành vi ép buộc thực hiện bằng lỗi cố ý với động cơ vụ lợi.
2.4. Thiệt thòi
Pháp luật Việt Nam không xem xét tới vấn đề thiệt thòi trong chế định giao kết hợp đồng, tuy nhiên vẫn đề cập tới những vấn đề như cho vay nặng lãi.
Luật La Mã đã xem thiệt thòi là một tì ố của sự ưng thuận. Nhưng phạm vi của thiệt thòi rất hẹp. Về ngữ nghĩa có thể xem thiệt thòi là việc một bên giao kết hợp đồng không nhận được những lợi ích tương đương với những gì mà bên này phải thực hiện cho bên kia. Tuy nhiên, người ta chỉ xem xét tới sự chênh lệch lợi ích quá đáng giữa các bên. Nhiều tác giả ngày nay xem thiệt thòi là một vấn đề của tính chính trực của sự ưng thuận22. Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ tại Điều thứ 652 và Bộ luật Dân sự Trung Kỳ tại Điều thứ 688 có quy định “Nếu hiệp – ước có sinh ra thiệt – hại thì chỉ những khi nào trong luật đã định mới có thể bác được” phỏng theo tư tưởng của Điều 1118, Bộ luật Dân sự Pháp chỉ vô hiệu hoá các hợp đồng có sự thiệt thòi do vị thành niên giao kết, còn các trường hợp khác phải có sự quy định rõ ràng của luật. Có lẽ các quy định này đã kế thừa Luật La Mã. Phạm vi thiệt thòi trong Luật La Mã chỉ xác định nhằm bảo vệ người chưa đủ 25 tuổi và người nghèo phải bán rẻ ruộng đất cho những người quyền thế23.
3. Kiến nghị
Các nghiên cứu ở trên cho thấy ưng thuận và các tì ố của sự ưng thuận chất chứa đầy tính triết lý và kỹ thuận pháp lý. Do đó cần viết các quy định cụ thể về chúng làm sao dành nhiều chỗ cho các giải thích tư pháp trong các tranh chấp cụ thể. Trước hết cần xem ưng thuận là yếu tố đầu tiên của hợp đồng. Các tì ố của sự ưng thuận bao gồm cả sự thiệt thòi cần được nêu ra một cách đầy đủ.
Chú thích:
(1) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo- Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 120- 121.
(2) Vũ Tam Tư, Luật Rôma: Khế ước & Nghĩa vụ, Trường đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Lưu hành nội bộ, tr. 53- 54.
(3) Wikipedia, the free encyclopedia, Misrepresentation, [http://en.wikipedia.org/wiki/Misrepresentation], 5/16/2009.
(4) Paul Latimer, Australian Business Law, CCH Australia Limited, 1987, p. 257.
(5) Corinne Renault- Brahinsky, Đại cương về pháp luật hợp đồng, Nxb. Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, 2002, tr. 46.
(6) Unidroit Principles of International Commercial Contracts with Official Commentary [1994]; Unidroit, Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế 2004, bản dịch tiếng Việt với sự tài trợ của Tổ chức quốc tế Pháp ngữ, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005, tr. 181- 182.
(7) Paul Latimer, Australian Business Law, CCH Australia Limited, 1987, p. 256- 257.
(8) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo- Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 121- 122; Corinne Renault- Brahinsky, Đại cương về pháp luật hợp đồng, Nxb. Văn hoá- Thông tin, Hà Nội, 2002, tr. 46.
(9) Robert W. Emerson, John W. Hardwick, Business Law, Barron’s educational series Inc., USA, 1997, pp. 89- 91; R. Keith Yorston and Edward E. Fortescue, Australian Mercantile Law, The Law Book Co. of Australia PTY LTD, Sydney, Melbourne, Brisbane, 1943, pp. 35 & 37.
(10) Aaron Larson, Fraud, Silent Fraud, and Innocent Misrepresentation, ExpertLaw,[http://www.expertlaw.com/library/business/fraud.html].
(11) Unidroit Principles of International Commercial Contracts with Official Commentary [1994]; Unidroit, Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế 2004, bản dịch tiếng Việt với sự tài trợ của Tổ chức quốc tế Pháp ngữ, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005, tr. 183.
(12) Vũ Tam Tư, Luật Rôma: Khế ước & Nghĩa vụ, Trường đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Lưu hành nội bộ, tr. 53.
(13) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo- Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 127
(14) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo- Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 128.
(15) Japan International Cooperation Agency (JICA), Japanese Laws (Volume 2: 1997- 1998)- Luật Nhật Bản (Tập II: 1997- 1998), Youth Publishing House- Nhà xuất bản thanh niên, Song ngữ Anh- Việt, p. 115.
(16) Xaca Vacaxum, Tori Aridumi, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Nguyễn Đức Giao và Lưu Tiến Dũng dịch ra tiếng Việt, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 139.
(17) Konrad Zweigert and Hein Koetz, An Introduction to Comparative Law, Clarendon Press, Oxford, 1998, p. 428.
(18) R. Keith Yorston and Edward E. Fortescue, Australian Mercantile Law, The Law Book Co. of Australia PTY LTD, Sydney, Melbourne, Brisbane, 1943, p. 39.
(19)
R. Keith Yorston and Edward E. Fortescue, Australian Mercantile Law, The Law Book Co. of Australia PTY LTD, Sydney, Melbourne, Brisbane, 1943, p. 39.
(20) Abdul Kadar, Ken Hoyle, Geoffrey Whitehead, Business Law, Made Simple Books, London, 1985, pp. 109- 110.
(21) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo- Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 129.
(22) John E. C. Brierley, Roderick A. Macdonald, Quebec Civil Law- An Introduction to Quebec Private Law, Emond Montgomery Publications Limited, Toronto, Canada, 1993, p. 405.
(23) Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lược khảo-Quyển II: Nghĩa vụ và khế ước, In lần thứ nhất, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963, tr. 135.
SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ – TS. NGÔ HUY CƯƠNG – Khoa Luật, Đại học Quốc gia
Trích dẫn từ: http://www.nclp.org.vn/
(MINH KHUE LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến Luật sư của LVN Group, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)