Sau hơn 30 năm xây dựng, trong đó có 20 năm đổi mới, nền kinh tế đất nước nói riêng và tầm vóc quốc gia nói chung đòi hỏi phải chuyển sang một giai đoạn phát triển mới. Đòi hỏi sống còn này của đất nước diễn ra vào lúc trên thế giới thời cơ và hiểm hoạ xen khít nhau. Sống trong một thế giới như vậy, chúng ta phải luôn luôn ý thức được vị trí của mình đang ở đâu trên thế giới đa cực này cũng như biết được điểm mạnh và điểm yếu của mình, chúng ta không thể tuỳ ý muốn gì làm nấy, mà phải nhìn rõ chính mình, để lựa chọn, để quyết định con đường phát triển của mình.
>> Luật sư tư vấn luật đầu tư nước ngoài trực tuyến gọi: 1900.0191
Luật sư tư vấn pháp luật đầu tư nước ngoài – Ảnh minh họa
Thế giới hôm nay
Tình hình thế giới ngày càng diễn ra phức tạp, đan xen nhiều cơ hội và hiểm họa. Thế giới của thế kỷ 21 là thế giới của khoa học công nghệ hiện đại, một thế giới năng động hơn, chứa đựng nhiều điều bất an hơn, nhiều điều khó tiên liệu hơn so với mọi dự báo khi thế kỷ trước đi qua. Song cơ hội cũng đang mở ra nhiều hơn cho những nơi nào có khả năng hấp thụ những nguồn lực to lớn của kinh tế thế giới đang cần thị trường. Hai nét đặc trưng này của thế giới hôm nay tất yếu sẽ chi phối mọi quyết sách mà nước ta sẽ lựa chọn.
Trước hết hãy điểm lại một vài nét nổi bật tình hình thế giới hiện tại, trước hết là Hoa Kỳ, vị trí siêu cường duy nhất của Hoa Kỳ đã bị lung lay và dần bộc lộ sự hình thành của một thế giới đa cực. Tình trạng lớn mạnh không chắc chắn của Hoa Kỳ thể hiện trong việc thế giới giảm niềm tin vào quốc gia này, bắt nguồn từ những quyết định sai lầm và sự sa lầy của Hoa Kỳ trong cuộc chiến Iraq. Và một nhân tố quan trọng hơn: đó là đồng đô la của Mỹ bị sụt giảm trên thị trường tài chính thế giới – đồng tiền từ lâu được coi là đơn vị tiền tệ chủ chốt của thế giới. Đồng Euro, đồng tiền duy nhất được 13 quốc gia của Liên minh Châu Âu sử dụng đã dần lấy được sự ổn định và lớn mạnh trên thị trường tài chính quốc tế. Bản thân đồng Euro đã tự hình thành như là đơn vị tiền tệ chủ chốt thứ hai trên thế giới. Nga – nước cần có một ngân sách rất lớn, nhưng lại phất lên nhờ giá dầu tăng đồng nghĩa với việc thu nhập về dầu thô của nước này tăng trong những năm gần đây trong khi các nước khác còn đang điên đảo. Quốc gia này đã lật ngược thế cờ, thay đổi thái độ hòa giải với Hoa Kỳ – thái độ mà Nga thể hiện từ khi Liên bang Xô Viết sụp đổ. Ngày nay, Nga đã lấy lại được thế cân bằng để đấu với Hoa Kỳ. Nhìn từ ngoài vào, đây có vẻ như là cuộc đấu tranh để hồi phục lại vị trí xưa cũ của nước này với tư cách là một siêu cường chính trị trên thế giới.
Trong khi đó, Trung Quốc nổi lên với sự tăng trưởng vượt bậc của nền kinh tế trong những năm gần đây. Sự tăng trưởng này nhanh chóng đến nỗi nền kinh tế của Trung Quốc đã được dự đoán sẽ bắt kịp với Nhật Bản trong vài năm tới nếu mọi thứ tiến triển tốt và trở thành cường quốc kinh tế đứng thứ 2 thế giới. Sự tăng trưởng về kinh tế của Trung Quốc cũng đi liền với sự gia tăng lớn mạnh về đầu tư và xây dựng lực lượng quân sự. Trung Quốc có thể một ngày nào đó sẽ vượt lên trở thành một tâm điểm đối đầu với Hoa Kỳ như là một thế lực về quân sự.
Khoảng 4 năm trở lại đây, thế giới bắt đầu nói về “BRICs”. BRICs là viết tắt tên của nhóm 4 nước Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc và hệ thống tiền tệ được tạo ra như một sự tiên đoán những quốc gia này sẽ phát triển trở thành những cường quốc kinh tế chủ chốt vào năm 2050. Nếu theo đà này, Trung Quốc sẽ thay thế Hoa Kỳ trở thành nền kinh tế đứng đầu thế giới trong khoảng 40 năm tới. Hoa Kỳ sẽ xếp thứ hai, đẩy Ấn Độ – nước có dân số tương đương với Trung Quốc – đứng thứ 3.
Xét tới sự phát triển năng động ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, nơi đây vẫn đang là cỗ máy mang lại cho kinh tế thế giới sức đảy lớn nhất. Tuy nhiên, ngay cả ở khu vực này, tăng trưởng mạnh luôn luôn gắn với nguy cơ “vỡ bong bóng” dưới một dạng nào đó ̶ thường là từ thị trường tài chính tiền tệ.
Một hiện tượng khác cần chú ý là đang xuất hiện những dấu hiệu về một cuộc chạy đua vũ trang mới, nổi lên là Mỹ tiếp tục đi sâu vào chủ nghĩa đơn phương; Trung Quốc từ hơn một thập kỷ nay ngân sách quốc phòng tăng 2 con số (khoảng từ 14 – 17% /năm) năm 2006 vượt 30 tỷ USD (song phương Tây đánh giá con số thực có thể là gấp đôi) đồng thời đẩy mạnh chính sách quyền lực mềm. Nguy cơ phổ biến vũ khí nguyên tử có thể lan ra một số quốc gia Trung Đông như Iran, Israel…và Nam Á, Ấn Độ, Pakistan… theo kiểu phản ứng dây chuyền.
Tình hình nêu trên cho thấy thế giới ngày càng dễn ra phức tạp trên nhiều mặt, nhiều phương diện, nhiều lĩnh vực của đời sống quốc tế. Rõ ràng tăng cường thực lực quốc gia trước sau vẫn là vấn đề sống còn trong thế giới toàn cầu hoá. Trong tình hình như vậy, một một biến cố nhỏ trong sự vận động của thế giới tuy không ảnh hưởng đến xu thế chung toàn cầu, nhưng xét dưới một góc độ nào đó nó lại là một bài học cho chúng ta-một quốc gia nghèo đang trên đà phát triển xem xét, suy ngẫm.
Những người bạn,
Hoa kỳ
Trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình, trong khoảng từ hai thế kỷ nay, có thể nói hiện tại chúng ta đang không có nước kẻ thù. Tuy nhiên, lúc này hay lúc khác vẫn có thể xảy ra những tranh chấp cụ thể – ví dụ như trên Biển Đông, trong thương mại, trong một số vấn đề chính trị khác… Nhưng có thể xem đó như những tranh chấp nhất thời và có thể khắc phục được thông qua quan hệ ngoại giao. Hiện tại chúng ta ta đang có trong tay vị thế của một nước không có quốc gia kẻ thù, đứng trước cơ hội thuận lợi để phát triển vì vậy phải tranh thủ khai thác tối đa có lợi cho mình và cho cộng đồng quốc tế.
Năm 2006 với việc thông qua PNTR, rào cản cuối cùng cho việc bình thường hoá quan hệ Mỹ – Việt được gỡ bỏ. Trong toàn bộ quá trình bình thường hoá quan hệ Việt – Mỹ, chất xúc tác ban đầu là vấn đề MIA (vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh), đặc biệt là những bước đi kể từ 1995 đến nay, có thể nói hai quốc gia thù địch với nhau sâu sắc này đều có những nỗ lực to lớn về phía mình để thiết lập được quan hệ bình thường với nhau như hôm nay.
Với việc hai nước lập đại sứ quán năm 1995 và ký Hiệp định Thương mại song phương (BTA) năm 2001, quan hệ Việt – Mỹ mở ra nhiều lĩnh vực khác và bước vào thời kỳ phát triển ngày càng toàn diện hơn. Thương mại hai chiều từ đó bình quân tăng 30%/năm, năm 2006 vượt 12 tỷ USD. Mỹ hiện nay là thị trường xuất khẩu lớn nhất của nước ta về khối lượng kim ngạch (lớn hơn xuất đi Trung Quốc), chiếm khoảng 1/5 tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm và cơ cấu hàng xuất khẩu có lợi cho ta – vì chủ yếu là hàng chế biến, gia công, mấy năm gần đây ta xuất siêu khoảng 3 – 4 tỷ USD/năm. Đầu tư của Mỹ vào VN bắt đầu tăng nhanh, điển hình là dự án sản phẩm thuộc công nghệ tin học của Intel có tổng FDI lên tới 1 tỷ USD; hiện nay 18 tập đoàn công ty xuyên quốc gia lớn của Mỹ đang thăm dò mở rộng thị trường đầu tư ở VN… Qua gần bốn nhiệm kỳ nối tiếp nhau của tổng thống Clinton và tổng thống Bush, những cố gắng về phía Mỹ trong việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam là liên tục. Có thể nói triển vọng quan hệ kinh tế Việt – Mỹ là hứa hẹn…Năm 2006 ngoại thương Việt – Mỹ chỉ chiếm khoảng 1,5 phần nghìn tổng kim ngạch ngoại thương của Mỹ, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ chỉ bằng khoảng 2 phần nghìn tổng nhập khẩu của Mỹ.
Với đòi hỏi tồn tại của một siêu cường, điều chắc chắn mọi phương án đối với Việt Nam đều được Mỹ tính toán rất kỹ càng. Song nếu tách quan hệ Việt – Mỹ ra khỏi tổng thể mối quan hệ của Mỹ với toàn bộ thế giới bên ngoài thì khác nào đề cao vai trò của Việt Nam trên trường Quốc tế.
Mỹ tham vọng rất lớn, không phải chỉ một Việt Nam nhỏ bé, mà nếu có thể thì toàn bộ ASEAN là lá chắn cho Mỹ đối trọng với Trung Quốc. Song điều này là không khả thi. Ngày nay các nước ASEAN đã trưởng thành và liên minh với nhau thành một khối, đã có tiếng nói nhất định trên bàn quốc tế, nên sẽ chẳng dễ dàng đơn phương theo Mỹ chống lại một nước thứ ba. Mỹ muốn có một ASEAN đủ mạnh tiếp tục duy trì thế cân bằng hiện nay trong khu vực và coi đấy là phương thức tốt nhất hạn chế Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng xuống phía Nam. Trong mong muốn có một ASEAN mạnh, Mỹ coi trọng vai trò của Việt Nam. Tất cả nhằm cho phép Mỹ tập trung nỗ lực của mình vào những vấn đề toàn cầu khác Mỹ cần ưu tiên hơn. Hiển nhiên ở Mỹ chỗ này chỗ khác vẫn còn những xu hướng chống Việt Nam. Một bộ phận nhất định (thiểu số) người Việt sống ở Mỹ sau 1975 vẫn gắn với quá khứ và có tác dụng nhất định góp vào những việc làm và tiếng nói chống Việt Nam trong từng vụ việc cụ thể. Song tất cả những hiện tượng này không phải là xu thế chủ đạo trong chính sách của Mỹ đối với Việt Nam.
Vấn đề dân chủ, nhân quyền và tôn giáo tuỳ yêu cầu chính sách đối ngoại của Mỹ và tuỳ những sự việc cụ thể lúc này lúc khác nổi cộm lên trong quan hệ hai nước. Trong vấn đề này có hai vế: (a) liên quan đến những giá trị mà Mỹ và phương Tây theo đuổi – mặt nào đó cũng là những giá trị chung của nhân loại tiến bộ; (b) là một trong những phương tiện trong chính sách đối ngoại của Mỹ ứng xử với Việt Nam.
Khách quan mà xét, vấn đề đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền cũng là một đòi hỏi, một xu thế đang lên trong trào lưu tiến bộ trên thế giới ngày nay – nhất là tại các nước phát triển và trong những lực lượng cánh tả ở nhiều nước đang phát triển. Đã là một xu thế tiến bộ của thế giới thì không một quốc gia nào có thể xem thường, cũng không quốc gia nào dại dột buông ngọn cờ dân chủ nhân quyền cho bên ngoài giành lấy. Mỹ và Việt Nam hiện nay không có những xung đột lợi ích mang tính chiến lược. Mỹ có yêu cầu duy trì ảnh hưởng kinh tế, văn hoá, chính trị ở Đông Nam Á để bảo vệ vị thế của mình và tranh giành ảnh hưởng với Trung Quốc, trong đó coi Việt Nam là một đối tác quan trọng ở khu vực.
Tóm lại, trong quan hệ với Mỹ, một trong hai đối tác quan trọng nhất của ta trong thế giới hiện tại, ngoài một số vấn đề thường nhật về tranh chấp thương mại, chỉ còn mỗi vấn đề nhân quyền là lúc này lúc khác có thể trở nên nhạy cảm – một vấn đề hoàn toàn không đáng là vấn đề và dừng lại ở giải quyết quan hệ ngoại giao mà không ảnh hưởng dáng kể tới những lĩnh vực khác.
Trung Quốc
Có thể nói trong quan hệ của Việt Nam với các nước lớn thì quan hệ Việt – Trung là khó nhất đối với Việt Nam – bởi lẽ đơn giản: nội hàm mối quan hệ song phương này chứa đựng nhiều mối quan hệ, nhiều vấn đề đa dạng và phức tạp hơn không có trong các mối quan hệ song phương khác. Cần nhìn nhận khách quan và thẳng thắn như vậy để có cách tiếp cận đúng đắn với ý chí vượt qua mọi khó khăn, nhằm vào cái đích xây dựng mối quan hệ bền vững. Ngày nay quan hệ hai nước đã được bình thường hoá, có nhiều ký kết quan trọng và có những bước phát triển mới. Tuy nhiên, việc thực hiện 16 chữ mà cả hai nước đều mong muốn hoàn toàn không dễ. Phía Trung Quốc đã khẳng định rõ ràng quan hệ hai nước là đồng chí không phải đồng minh, hợp tác cùng có lợi. Về phần mình, ta đánh giá quan hệ hai nước ngày nay đã đạt được những tiến bộ quan trọng, sự tin cạy lẫn nhau đã được cải thiện nhiều, song vẫn còn nhiều vấn đề do quá khứ để lại, ở cả hai phía còn tồn tại những vấn đề nan giải, lúc này lúc khác vẫn còn những mâu thuẫn chưa được giải quyết.
Quan hệ kinh tế hai nước đang phát triển tốt, thương mại 2 chiều đạt 7,2 tỷ USD năm 2005 và có triển vọng đạt 10 tỷ USD năm 2007 (ta nhập siêu) và 15 tỷ USD vào năm 2010. Tuy nhiên quan hệ hợp tác kinh tế hai nước hoàn toàn chưa tương xứng với khả năng cho phép. Ta đang ra sức khắc phục tình trạng đã từng xảy ra trước đây theo kiểu nhập về nhà máy xi-măng lò đứng, nhà máy mía đường, hàng tiêu dùng rẻ tiền và chất lượng thấp, xuất đi tài nguyên thiên nhiên, nguyên liệu…
Một trong những vấn đề nan giải nhất hiện nay còn tồn tại trong quan hệ Việt – Trung là tranh chấp 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngoại trừ các bên hữu quan thoả thụân được với nhau, trên thế giới chưa có một phương thức nào hoà bình giải quyết được loại tranh chấp này, kể cả Luật biển hiện hành bởi 2 lý do: (a) các nước cho rằng chủ quyền quốc gia về lãnh thổ và lãnh hải là bất khả xâm phạm; (b) các quốc gia đặt quyền tài phán quốc gia là cao nhất. Cách giải quyết còn để ngỏ là các biện pháp quân sự – hoặc là không giải quyết.
Để xây dựng được quan hệ tốt với Trung Quốc, cần phải hiểu rõ Trung Quốc ngày nay.
Nếu tính theo GDP danh nghĩa (USD), kinh tế Trung Quốc năm 2006 bẳng 5,4% GDP thế giới, đứng thứ tư thế giới sau Mỹ (27% GDP thế giới), Nhật (9,4%), Đức (6%) – (nguồn: World Economy Outlook, IMF 4-2007).
Cuối thập kỷ 1970 xuất khẩu của Trung Quốc mới chiếm 1,2% xuất khẩu của thế giới, cuối thập kỷ 1980 chỉ số này là 2%. Mười lăm năm sau, năm 2006, Trung Quốc chiếm 7,2% của xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ thế giới, đứng sau EU là 29%, đứng sau Mỹ là 9,8% và đứng trước Nhật là 5%. Nhờ xuất khẩu thường xuyên tăng 2 con số trong gần hai thập kỷ vừa qua, Trung Quốc hiện nay có khoảng 3000 tỷ USD dự trữ ngoại tệ, (Trung Quốc tự đánh giá khối lượng dự trữ này là trên 1000 tỷ USD). Dựa vào thế mạnh này, Trung Quốc kiên quyết giữ nguyên tỷ giá đồng Nhân dân tệ, gần đây mới điều chỉnh nhỏ giọt, bất chấp mọi sức ép của Mỹ và phương Tây. Làm như vậy Trung Quốc vừa giữ được thế mạnh để tăng sức ép ngược lại với phương Tây, vừa được các nước ASEAN và nhiều nước đang phát triển khác chịu ơn vì tránh được rối loạn trên thị trường tiền tệ.
Ngày nay Trung Quốc đạt mục tiêu trở thành “công xưởng của thế giới”, trở thành hiện tượng thế giới, đặt ra nhiều vấn đề mới cho nhiều nước đang phát triển và cho hầu hết các nước phát triển trên các phương diện: thị trường, nguồn nguyên nhiên liệu, cơ cấu kinh tế, ô nhiễm môi trường tự nhiên.
Tóm lại, chiếm thị trường bằng hàng hoá rẻ, duy trì và khai thác trật tự thế giới hiện tại, quyết không đi đầu, tranh thủ thời gian phát triển thế và lực, đó là nội dung cơ bản của chính sách quyền lực mềm. Thực hiện chính sách này, Trung Quốc đã có nhiều bước đi quyết liệt, kinh tế ngày càng mạnh, ảnh hưởng chính trị tăng lên rõ rệt.
Và những người bạn khác:
Từ nhiều thập kỷ nay Việt Nam có quan hệ tốt với Nhật, EU, Nga, Ấn Độ. Sau Hội nghị cấp cao APEC 14 và sau khi Việt Nam gia nhập WTO quan hệ của nước ta với những đối tác này ngày càng được tăng cường.
Có thể nêu lên một số nhận xét chính như sau:
1. Những đối tác lớn này có tiềm năng lớn về nhiều mặt, không có những vướng mắc chính trị gì đáng kể đối với nước ta, có yêu cầu mở rộng hợp tác về mọi mặt với nước ta vì (a)cần mở rộng thị trường và đa dạng hoá thị trường để san bớt rủi ro; (b) tăng cường sự có mặt của họ tại khu vực này.
2. Nước ta coi trọng và rất nỗ lực phát triển quan hệ với những đối tác này. Hầu hết các đối tác này là thị trường xuất khẩu quan trọng của nước ta.
3. Kết quả hợp tác đạt được còn dưới tiềm năng cho phép và dưới sự mong đợi của các bên.
Chỗ yếu thực sự là ta chưa có một chiến lược khả thi và các chính sách đi kèm thu hút được các nguồn lực to lớn – kể cả FDI và công nghệ – từ những đối tác này. Yếu kém này nằm ngay trong chiến lược phát triển của ta:
1. Tiến trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá không đi theo trình tự phát triển kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật phải đi trước một bước;
2. Một thời gian dài có xu hướng phát huy nội lực với nghĩa hẹp và có lúc biến tướng thành tự cung tự cấp; song có lúc lại nặng về tranh thủ được gì thì hợp tác nấy;
3. Thiếu hẳn những quyết sách cụ thể phát huy thế mạnh của từng đối tác, nói nhiều về thực hiện đa phương đa dạng hoá các mối quan hệ nhưng chưa làm được bao nhiêu;
4. Kết cấu hạ tầng xã hội và thể chế pháp lý không phát triển kịp với phát triển kinh tế và cũng vì thế không đáp ứng được những đòi hỏi cho việc mở rộng hợp tác;
5. Trên hết cả là chữ tín trong hợp tác chưa được như mong muốn.
Lợi ích chiến lược của Việt Nam đòi hỏi phải thường xuyên tăng cường quan hệ với mọi đối tác khác trong khu vực. Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực vào sự hợp tác này. Song với vị trí địa lý kinh tế và vai trò chính trị của mình trong khu vực, Việt Nam còn rất nhiều việc phải làm để có thể trở thành một thành viên hợp tác năng động và có năng lực.
Riêng trong ASEAN, Việt Nam phải cố gắng phấn đấu thoát khỏi nhóm nước ASEAN nghèo để tham gia bình đẳng với các nước ASEAN 6, và qua đó góp phần tạo ra một ASEAN vững mạnh, có khả năng đóng góp tích cực vào hoà bình, ổn định và hợp tác của khu vực, được tất cả các bên hữu quan tôn trọng. Một ASEAN như thế phù hợp với lợi ích của Việt Nam. Kết luận cần rút ra:
Nhìn bao quát tình hình thế giới hiện nay như đã trình bày bên trên, có thể nói Việt Nam đang ở vào thời kỳ có điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt với tất cả những cường quốc, những nền kinh tế lớn và với hầu hết mọi quốc gia khác trên thế giới; tất cả những đối tác này cũng có yêu cầu và muốn mở rộng hợp tác với Việt Nam; cả phía ta và phía các đối tác đều có nhiều khả năng hiện thực thực hiện sự hợp tác đáng mong muốn ấy.
Một nước Việt Nam phát triển sẽ là sự đóng góp tích cực vào hoà bình ổn định ở khu vực, cũng có nghĩa là góp phần mở rộng thị trường trong khu vực – cái mà những nguồn lực về vốn và công nghệ rất phong phú trên thế giới đang cần để có không gian hoạt động ngày càng rộng lớn. Mặt khác sự phát triển mạnh của thị trường khu vực cũng sẽ giúp nước ta mở rộng thị trường của chính mình. Phát triển theo xu thế luôn luôn tạo ra cho mình khả năng mới mở rộng thị trường là xu thế phát triển bền vững mà quốc gia thông minh nào cũng phải lựa chọn.
Có thể nói, chưa bao giờ tình hình thế giới và khu vực lại hội tụ những yếu tố thuận lợi to lớn như thế cho việc phát triển mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và thế giới bên ngoài, để mở ra một giai đoạn phát triển mới của Việt Nam. Không có mâu thuẫn quốc gia đáng kể, xu thế chính vẫn là hợp tác. Thời cơ như thế không phải là vĩnh cửu. Có thể dự báo chừng nào các đối tác lớn của nước ta – trước hết là Mỹ và Trung Quốc còn duy trì các chính sách và những mối quan hệ giữa họ với nhau ở trạng thái cân bằng tại khu vực này như hiện nay, những điều kiện để nước ta có thể phát triển được sự hợp tác như vậy còn kéo dài. Nhưng cũng chưa thể nói trước được điều gì, những cơn khủng hoảng kinh tế, chính trị và tự nhiên.
Sau 20 năm đổi mới GDP danh nghĩa tính theo đầu người năm 2006 tăng gấp 4 lần năm 1986. Số liệu này khẳng định tất cả những gì đã làm được.
Tuy nhiên, cũng theo số liệu thống kê của IMF năm 2006, GDP danh nghĩa toàn thế giới tính theo đầu người năm 2005 là 7263 USD, của Việt Nam là 650 USD, nghĩa là gần bằng 9% mức của thế giới – nghĩa là khoảng cách của nước ta so với thế giới bên ngoài là rất lớn.
So sánh với các nước láng giềng chung quanh, cùng nguồn thống kê nêu trên cho thấy: Mặc dù gần một thập kỷ liên tiếp Việt Nam có tốc độ tăng trưởng đứng thứ hai thế giới sau Trung Quốc, nhưng GDP danh nghĩa tính theo đầu người của Việt Nam năm 2005 bằng 33% của Trung Quốc (1940 USD); 2,1% Singapore (29765 USD), 3,6% Hàn Quốc (17865 USD); 4,2% Đài Loan (15387 USD); 12% Ma-lai-xi-a (5376 USD); 21% Thái Lan (2993 USD); 43% In-đô-nê-xi-a (1500 USD); và 50% Phi-líp-pin (1278 USD). Với tốc độ phát triển như 20 năm đổi mới vừa qua, để Việt Nam có được độ dài đường bộ cao tốc, đường sắt tính theo đầu người và lượng điện tính theo đầu người như Thái Lan và Trung Quốc hiện nay, nước ta ước chừng cần 20 năm. Còn nhiều chỉ số khác để so sánh: kim ngạch xuất khẩu, dự trữ ngoại tệ, thu hút FDI.., nhìn vào chỉ số nào cũng thấy khoảng cách rất lớn.
Nền kinh tế nước ta ngày nay tạo ra được nhiều sản phẩm mới trước đây chưa có, chủng loại sản phẩm tham gia xuất khẩu lên tới hàng trăm, nhiều sản phẩm cạnh tranh được trên thị trường thế giới, một số sản phẩm đã tiếp cận được với công nghệ hiện đại…Tuy nhiên thành tựu nói trên không được phép che khuất thực tế tỷ trọng sản phẩm công nghiệp trong cơ cấu toàn bộ nền kinh tế còn thấp, hàm lượng công nghệ và chất xám cũng như tỷ lệ lãi trong mỗi sản phẩm còn thua kém nhiều nước có trình độ phát triển kinh tế tương tự như nước ta, đi như 20 năm qua vẫn là chậm. Nếu tính theo chỉ số ICOR liên tiếp những năm gần đây là 5 hoặc >5 thì tốc độ tăng trưởng GDP đạt được hiện nay là thấp; tăng trưởng mới chủ yếu dựa vào đầu tư mới, chứ không phải công nghệ mới. Tiếp tục duy trì cơ cấu kinh tế như hiện nay, vào khoảng năm 2020 nước ta có nguy cơ trở thành một “bãi rác công nghiệp”.
Nghị quyết Đại hội X: Phải sớm đưa nước ta ra khỏi hàng ngũ các nước nghèo và chậm phát triển vào năm 2010 – giả thử với cái đích GDP theo đầu người tối thiểu phải đạt 1500 – 2000 USD, và phải trở thành nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại vào năm 2020… Điều cần chú ý là phương hướng phát triển kinh tế theo chiều rộng, chủ yếu dựa lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên, huy động nhiều đầu tư mới như hiện nay đã đi tới giới hạn không thể vượt qua trên nhiều phương diện:
1. Khả năng cạnh tranh của lao động giá rẻ (cơ bắp, ít hàm lượng kỹ năng hoặc chất xám) ngày càng thấp, ngày càng ít khả năng hấp thụ đầu tư mới có hàm lượng công nghệ cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế càng khó khăn. Trong khi thiếu việc làm gay gắt, ta lại rất thiếu lực lượng lao động có nghề, có kỹ năng cao.
2. Kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật ngày càng không theo kịp yêu cầu phát triển; đường xá, những công trình tiện ích khác… ngày càng thiếu; đất đai, điện nước và nhiều nguyên liệu khác ngày càng khan hiếm nhưng đang lãng phí và thất thoát trầm trọng; môi trường tự nhiên xuống cấp tệ hại so với thành tựu kinh tế đạt được.
3. Thể chế pháp lý và hệ thống quản lý nhà nước, quản lý xã hội ngày càng không theo kịp yêu cầu phát triển của đất nước; cải cách hành chính hầu như giẫm chân tại chỗ trong suốt 20 năm đổi mới, khả năng thực thi luật pháp và các chính sách quốc kế dân sinh rất thấp, khả năng thực hiện những cam kết trong kinh tế đối ngoại cũng rất thấp, năng lực nghề nghiệp đội ngũ cán bộ nhà nước dưới tầm đòi hỏi phát triển của đất nước – thua kém năng lực đội ngũ cán bộ các nước Trung Quốc, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Phi-líp-pin..; tệ nạn quan liêu tham nhũng trầm trọng.
4. Phát triển nguồn nhân lực, phát triển xã hội không đáp ứng đòi hỏi phát triển của đất nước. Bây giờ mới dám thừa nhận sự đổ vỡ của nền giáo dục nước nhà; ngành y tế có nhiều bất cập lớn; trong khi đó chi tiêu cho y tế và giáo dục ở nước ta tính theo tỷ lệ thu nhập của người dân cao hơn rất nhiều so với các nước ASEAN.
5. Đạo đức và nhiều giá trị xã hội quan trọng xuống cấp tới mức độ nguy hiểm. Quan liêu cùng với nhiều thói hư tật xấu và tệ nạn xã hội đang kìm hãm ý chí vươn lên của người dân – nhất là của thanh niên; mặt khác đang làm thui chột nhiều chủ trương chính sách đúng đắn. Khẩu hiệu “sống và làm việc theo pháp luật” vẫn còn là một mơ ước nhiều hơn là một thực tế. Cả nước đang trả giá cho bệnh đạo đức giả, bệnh thành tích, bệnh nói dối kéo dài lâu nay.
Trên hết cả, yếu kém lớn nhất vẫn là trình độ dân trí còn thấp so với đòi hỏi của phát triển; trình độ và chất lượng vận hành của nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự – nói cụ thể hơn nữa là trình độ quản lý nhà nước, xã hội còn rất lạc hậu so với tiềm năng và đòi hỏi của phát triển.
Về đối ngoại, đáng lưu ý một thực tế là nước ta có vị thế quốc tế và thời cơ thuận lợi như đã nói, nhưng thực lực yếu, thêm vào đó là có không ít những yếu kém trong đối ngoại, nên Việt Nam giữ vị trí tương đối thấp trong chính sách đối ngoại của hầu hết các đối tác quan trọng của nước ta, kể cả Trung Quốc và các nước ASEAN. Vị trí thấp của ta trong chính sách đối ngoại của các đối tác đặt ra cho nước ta không ít thách thức tiềm tàng, kể cả về mặt an ninh với nghĩa cần có nhiều đồng minh và đồng minh tin cậy. Không thể trách cứ bất kỳ nước nào về vị trí thấp của nước ta trong chính sách đối ngoại của họ, kể cả những nước là bạn thân nhất. Lẽ đơn giản là vị trí của nước ta trong chính sách đối ngoại của họ do chính thực lực của ta và vị thế đối ngoại của ta quyết định, không lòng tốt hay truyền thống hữu nghị lịch sử nào thay thế được điều này.
Vốn quý nhất của đất nước không thể nói là nhỏ: Dân tộc ta là một dân tộc trẻ, khao khát phấn đấu cho cuộc sống giàu có và hạnh phúc, 52% dân số trong tuổi lao động, trên 45% dân số tuổi dưới 40, trình độ học vấn không thấp so với nhiều nước đang phát triển giàu có hơn mình, có nhiều khả năng tiếp thu kỹ năng và công nghệ. Nước ta còn có nhiều nguồn vốn quý khác chưa được đánh giá đúng mức:
– Chỉ riêng việc giảm bớt tư tưởng thành tích, giảm bớt sự trùng lặp và tư tưởng cát cứ, địa phương chủ nghĩa – cả nước là 64 nền kinh tế tỉnh thành và gần 30 nền kinh tế Bộ, ngành, tổng cục..; chỉ cần giảm bớt những đầu tư chạy theo thành tích và tăng trưởng GDP cho địa phương mình, ngành mình – vô luận nền kinh tế thiếu hay thừa.., cả nước sẽ dôi dư ra những nguồn lực rất to lớn.
– Nhìn nhận lại các bước đi, nhìn nhận lại quy hoạch phát triển, nhìn nhận lại những dự án đầu tư cực kỳ lãng phí và gây thêm ách tắc mới.., nếu thay đổi sự phân bổ nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước, thay đổi cách thu hút và phân bổ nguồn lực đầu tư của xã hội, của FDI qua những thiết chế, luật pháp, những khuyến khích, cởi mở.., rất có thể hình dung vốn liếng trong tay ta không ít.
– Chưa nói đến việc chống tham nhũng, chỉ cần giảm thiểu một phần ba, hoặc phân nửa, tốn kém về thời gian – cũng có nghĩa là sự mất mát về cơ hội – cho các doanh nghiệp, giảm bớt những chi phí trung gian, loại bớt những giấy tờ mẹ, con… các doanh nghiệp đã được nhờ lắm rồi, sẽ dôi dư ra bao nhiêu tâm sức, thời gian và của cải cho những hoạt động kinh doanh hữu ích khác.
– Vân vân…
Còn một lãng phí ghê gớm nhất thiết phải nêu lên, đó là lãng phí người tài, lãng phí sự sáng tạo, sử dụng người không đúng chỗ, không đúng năng lực, phát sinh ra một lớp người quan liêu ăn bám mới cản trở bao người khác và kìm hãm đất nước. Tại sao không tính đến đảo ngược sự lãng phí này thành vốn liếng trong tay?
Ngày nay hàng năm khu vực kinh tế tư nhân làm ra trên 50% GDP cả nước, cung cấp 80% việc làm mới cho xã hội và trên 80% kim ngạch xuất khầu. Nguồn ngoại tệ lớn nhất tích lũy được cũng đến từ khu vực kinh tế tư nhân, riêng kiều hối hàng năm đã 4 – 5 tỷ USD. Khu vực kinh tế quốc doanh tuy chiếm tới 70% vốn liếng toàn xã hội, với nhiều tài nguyên đất đai và đặc quyền khác song cũng chỉ làm ra dưới 50% của cải toàn xã hội; tuy nhiên phải thừa nhận ngày nay khu vực kinh tế quốc doanh hoạt động hiệu quả hơn thời bao cấp – nhờ phải bơi trải trong cơ chế thị trường.
Vấn đề lớn nhất, thách thức lớn nhất đặt ra cho lãnh đạo nước ta là làm sao nuôi dưỡng, phát huy được nguồn vốn đất nước có trong tay cực kỳ to lớn này, làm sao nghiêm cấm mọi hành vi xâm hại nó; nhân dân ta ý thức sâu sắc được nguồn vốn trong tay này, quyết tâm bảo vệ, phát huy; quyết không để cho yếu kém của bản thân mình cũng như sự tha hoá của bộ máy quản lý nhà nước làm mai một, lãng phí.
Cả nước phát huy được nguồn vốn trong tay như vậy còn là điều kiện tiên quyết thu hút có hiệu quả mọi nguồn lực có chất lượng cao từ bên ngoài cho sự nghiệp phát triển đất nước, mở mang cho đất nước thị trường mới để vươn xa ra thế giới bên ngoài – đòi hỏi không thể thiếu để con người Việt Nam có điều kiện phát huy hết mức bản thân mình cho sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Tất cả những điều đã nói ở trên cho thấy nước ta không thể tiếp tục chạy theo lợi thế so sánh lao động rẻ, khai thác tài nguyên và bán môi trường, không thể đi tiếp theo con đường bóc ngắn cắn dài, không thể kéo dài mãi tình trạng hệ thống chính trị không theo kịp sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Năm 1986 khi Việt Nam tiến hành đổi mới, khoảng cách GDP tính theo đầu người giữa Việt Nam và Trung Quốc là 200 USD, năm 2005 khoảng cách này là 1290 USD nghiêng về phía Trung Quốc. Cũng so sánh như vậy với Thái Lan khoảng cách này năm 1986 là 1296 USD, năm 2005 là 2343 USD… Có rất nhiều số liệu thống kê chứng minh càng chạy đua như vừa qua, chắc chắn càng tụt hậu.
Giai đoạn trở thành nước mới công nghiệp hoá (NIC)
Theo quan điểm của các tổ chức Liên hiệp quốc, NIC là nước có những tiêu chí sau đây:
– Quyền tự do dân chủ trong xã hội và các quyền công dân khác ngày càng mở rộng.
– Chuyển hẳn từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, đặc biệt là phát triển mạnh khu vực chế tạo, lao động nông nghiệp chỉ còn dưới 20% lao động cả nước.
– Nền kinh tế thị trường ngày càng mở và hoàn thiện, cho phép thương mại tự do với các nước trên thế giới.
– Hình thành được các công ty xuyên quốc gia (TNCs).
– Thu hút được khối lượng lớn FDI, nhất là từ các TNCs.
– Có sự lãnh đạo chính trị đối với khu vực ảnh hưởng trong khuôn khổ nhà nước pháp quyền ngày càng phát triển.
Các NICs và các nước phát triển giống nhau ở chỗ phải tạo ra những yếu tố cơ bản:
(a) Kinh tế phát triển,
(b) Thị trường tự do,
(c) Nhà nước pháp quyền,
(d) Xã hội dân sự.
Điểm khác nhau giữa NICs và nước phát triển trước hết là ở chỗ cả bốn yếu tố vừa kể trên của nước phát triển ở trình độ cao hơn hẳn.
Để mở ra hướng chiến lược phát triển đất nước dựa trên phát huy nguồn lực con người và khai thác hội nhập, ngay từ bây giờ cần quan tâm xây dựng đồng bộ cả 4 yếu tố vừa trình bày trên. Thậm chí có thể nói xây dựng đồng thời và đồng bộ cả 4 yếu tố ấy là bí quyết của thành công, bởi lẽ những yếu tố này vừa là tiền đề vừa là cứu cánh của nhau, cả 4 yếu tố này tổng hợp lại thành điều kiện tiên quyết để thực hiện chiến lược phát triển dựa trên phát huy nguồn lực con người và khai thác hội nhập. Xem như vậy, tìm đường tạo ra lợi thế so sánh mới dựa trên phát huy nguồn lực con người và khai thác hội nhập, xây dựng bằng được nhà nước pháp quyền, kiên trì phát triển xã hội công dân, đó chính là nội dung chủ yếu của chiến lược phát triển đất nước ta cho những thập kỷ tới. Đó cũng là con đường lựa chọn cho nước ta chỗ đứng được chấp nhận trong thế giới đa cực.
Dồn mọi nỗ lực cao nhất cho mục đích trung tâm là chuyển đổi lợi thế so sánh.
Trong trạng thái một nền kinh tế đông dân, còn nghèo và lạc hậu như ở nước ta, bàn tay và khả năng nhà nước hỗ trợ những đổ vỡ trong quá trình chuyển đổi rất hạn chế. Vì lẽ này khi chuyển đổi lợi thế so sánh vẫn phải duy trì tính liên tục trong phát triển kinh tế – xã hội, tuy nhiên với ý thức rút dần ra khỏi đường mòn đang đi, cố sao tránh những xáo động quá lớn mà khả năng đất nước không thể chịu đựng được. Suy nghĩ như vậy không có nghĩa tránh né những thay đổi quyết liệt buộc phải chấp nhận, nhất là chấm dứt hẳn mọi bao cấp – kể cả bao cấp đặc quyền; loại bỏ bệnh “thành tích”, đoạn tuyệt với tư tưởng “nhiệm kỳ”.
Trước khi bàn sâu thêm việc chuyển đổi sang lợi thế so sánh mới, có thể nhận định: Tình hình bên trong và bên ngoài của nước ta hiện nay cho phép vừa duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, vừa nâng cao chất lượng và hiệu quả nền kinh tế; cần chủ động thông qua nâng cao chất lượng và hiệu quả nền kinh tế để làm bật ra những khả năng, những điều kiện cho phép chuyển đổi nhanh sang lợi thế so sánh mới.
Để tạo ra lợi thế so sánh mới, nhà nước cần đặc biệt tập trung nỗ lực xác lập những ưu tiên mới mang tính định hướng trong mọi chính sách, thay đổi quy hoạch phát triển để phục vụ những uu tiên cho tạo ra lợi thế so sánh mới.
Thật ra từ hàng chục năm nay đã nhấn mạnh đến yêu cầu đổi mới cơ cấu kinh tế, song vì không định hướng được là nhằm vào đổi mới lợi thế so sánh, trong mọi chính sách được ban hành cũng không có những ưu tiên mang tính định hướng khuyến khích sự ra đời lợi thế so sánh mới, lại thiếu hẳn một quy hoạch phát triển để thực hiện những ưu tiên có định hướng, do đó việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra rất chậm, thậm chí nhiều khi tự phát. Hiện nay còn nổi lên hiện tượng tranh thủ được đầu tư hay đối tác bên ngoài nào thì làm nấy, thiếu hẳn sự chọn lọc cần thiết cho đất nước chuyển sang xu thế phát triển theo chiều hướng đổi mới lợi thế so sánh. Toàn bộ thực trạng này cần được khắc phục.
Thiết nghĩ tạo ra lợi thế so sánh mới trước hết là công việc của giới kinh doanh, của doanh nghiệp, của các chủ thể tham gia nền kinh tế – bao gồm toàn bộ nguồn lực con người, vì họ là người quyết định chọn sản phẩm gì, cách đi như thế nào để tạo ra lợi thế so sánh mới trên cơ sở của thị trường – với mục tiêu cuối cùng là làm ra sản phẩm có sức cạnh tranh chủ yếu dựa trên công nghệ, chất xám.
Cải thiện vị trí càn cải cách:
Ban hành những chính sách khuyến khích cho các chủ thể của nền kinh tế có những thuận lợi trong việc tạo điều kiện, lựa chọn và làm ra sản phẩm mới theo hướng phát huy lợi thế so sánh mới; Điều động và phân bổ những nguồn lực từ ngân sách nhà nước hướng vào những ưu tiên của quốc gia trong việc phục vụ mục tiêu tạo ra lợi thế so sánh mới; Có quy hoạch phát triển theo hướng khuyến khích các sản phẩm mới đi theo hướng lợi thế so sánh mới – đặc biệt là những dự án phát triển kết cấu hạ tầng; Hỗ trợ doanh nhân, doanh nghiệp trong toàn bộ quá trình hội nhập kinh tế thế giới; Làm tốt việc huy động và phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế, trong nước và nước ngoài cho việc nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ, vận dụng và phổ cập kỹ thuật và công nghệ; Khuyến khích phát triển hệ thống bảo hiểm và an sinh hỗ trợ những rủi ro trong quá trình đổi mới lợi thế so sánh; Đổi mới, cải tiến, hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước theo hướng khuyến khích sự phát triển lợi thế so sánh mới, chống quan liêu tham nhũng; Hỗ trợ xử lý những vấn đề mà doanh nhân, doanh nghiệp và thị trường không xử lý được hoặc xử lý kém hiệu quả; Xử lý tình hình khẩn cấp khi xảy ra; Bảo vệ môi trường; Làm tốt nhiệm vụ thông tin, dự báo, tăng khả năng tiên liệu được (predictability) đối với tình hình và biến chuyển của nền kinh tế;
V.v…
Chúng ta cần:
Làm quy hoạch và tạo sân chơi, không ngừng nâng cấp cuộc chơi với tầm nhìn toàn cầu; Người cung cấp các dịch vụ và gìn giữ luật chơi; Người làm “giùm” những việc doanh nhân, doanh nghiệp và thị trường làm không tốt bằng, đặc biệt là trong phát triển kết cấu hạ tầng tạo ra những chuyển dịch lớn trong kinh tế; Nhà nước thôi không làm kế hoạch sản xuất các sản phẩm; Nhà nước thôi không làm kinh tế, ngoại trừ một số vấn đề liên quan đến quốc phòng và vệ sinh dịch tễ.
Phát triển con người, phát triển thể chế tạo thuận lợi lớn nhất cho con người phát huy sáng tạo – đòi hỏi này cho thấy dân chủ là chìa khoá vạn năng cho mọi tình thế phát triển của kinh tế thế giới mà nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập mạnh mẽ. Vì vậy ngay từ bây giờ cần huy động trí tuệ cả nước xây dựng quốc sách lâu dài phát huy lợi thế so sánh về nguồn lực con người và nguồn tài nguyên đất đai Việt Nam với tầm nhìn mới như vậy.
Hệ thống chính trị, cần đổi mới:
Xây dựng và phát huy lợi thế so sánh mới dựa trên phát huy sự sáng tạo của con người như vậy đòi hỏi nhất thiết phải đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và vai trò quản lý của nhà nước phải đảm đương một chức năng cực kỳ khó khăn là phát huy dân chủ để huy động sự tham gia của toàn thể cộng đồng dân tộc vào nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự.
Ngay ở những nước có mô hình nhà nước pháp quyền và xã hội công dân ở mức độ phát triển cao, công dân cũng phải thường xuyên đấu tranh để giành lấy quyền tự do dân chủ của mình, bởi lẽ quyền lực của nhà nước hoặc của các tập hợp khác luôn luôn có xu hướng tự nhiên là thâu tóm hay hạn chế quyền của cá nhân công dân, của các cá thể thành viên trong cộng đồng quốc gia; mà công dân thì không thể thiếu cộng đồng, thiếu quốc gia.
Mục đích cuối cùng của xây dựng nhà nước pháp quyền là bảo đảm quyền tự do dân chủ và quyền sở hữu của công dân – đó là nguồn gốc và động lực của sáng tạo, là làm cho hiến pháp trở thành quyền tối thượng trong thiết chế bảo đảm quyền lợi và thành quả của công dân, của đất nước, tạo ra nền tảng và thể chế cố kết dân tộc để hội nhập thắng lợi vào quá trình toàn cầu hoá của nhân loại. Xây dựng xã hội công dân là tạo dựng môi trường cho công dân phát triển chính mình với ý thức tự quản, thông qua các hiệp hội, các tổ chức cộng đồng của mình nâng cao quyền năng của mình tham gia vào mọi công việc của đất nước, tham gia quản lý đất nước và phát huy vai trò tự quản trong xã hội, gìn giữ và phát huy những thành quả, những giá trị của cộng đồng, của đất nước, bảo vệ môi trường. Thực hiện công khai minh bạch, làm cho dân trí ngày càng cao, chất lượng xã hội công dân sẽ càng có điều kiện để tự nâng cao, nhà nước pháp quyền ngày càng mạnh, sức mạnh của đất nước sẽ được phát huy.
Tóm lại
Trong một thế giới tư duy hầu như không bắt kịp sự chuyển động như vậy, không một quốc gia nào có thể bình chân như vại. Tình hình này diễn ra đúng vào lúc nước ta phải tìm đường chuyển lên một giai đoạn phát triển cao hơn. Đổi mới lợi thế so sánh thực chất là đổi mới triệt để đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của đất nước, để thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh cho chính mình, để được thế giới thừa nhận Việt Nam đồng nghĩa với hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Đó cũng là con đường để Việt Nam phấn đấu trở thành một chủ nhân bình đẳng của thế giới và có ích đối với cả thế giới.
Phát huy dân chủ nhận rõ chỗ mạnh, yếu của mình, tăng cường đoàn kết và hoà giải dân tộc, nhân dân ta hoàn toàn có thể tạo ra cho mình lợi thế so sánh mới, làm nên những thành tựu tạo ra cho quốc gia mình một vị thế được cả cộng đồng thế giới chấp nhận.
Đấy là đòi hỏi tất yếu để nước ta có thể tồn tại và phát triển trong một thế giới năng động, đang chuyển hoá sang trật tự đa cực, đang cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Tác giả: Chưa xác định
CÔNG TY LUẬT LVN GROUP sưu tầm và biên tập