Theo khoản 2 Điều 1 Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007 định nghĩa:
“Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình”.
1. Xử lý hành vi vợ lấy tiền của chồng?
Điều 43 Luật hôn nhân gia đình 2014 quy định: “Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.”
Theo Điều trên, tiền của chồng có thể được coi là tài sản riêng của chồng để phục vụ nhu cầu thiết yếu của bản thân.
Theo Điều 58 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định hành vi bạo lực về kinh tế trong gia đình thì:
Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
1. Chiếm đoạt tài sản riêng của thành viên gia đình.
2. Ép buộc thành viên gia đình lao động quá sức hoặc làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại hoặc làm những công việc khác trái với quy định của pháp luật về lao động.
3. Ép buộc thành viên gia đình đi ăn xin hoặc lang thang kiếm sống.
Như vậy việc vợ lấy tiền của chồng có thể bị coi là hành vi chiếm đoạt tài sản, nhưng muốn xử phạt người vợ thì phải có đơn tố cáo của người chồng. Tuy nhiên để tránh bị vi phạm pháp luật, và “giữ” tiền cho chồng thì mỗi người vợ không nên tự ý lấy tiền của chồng mình. Tuy nhiên không phải vì thế mà không thể không có cách để “lách luật”. Thay vì tự ý lấy tiền thì các bà vợ có thể nhờ chồng mua vật dụng này nọ cho mình và gia đình hoặc “mượn” tiền của chồng để mua đồ,… Như vậy sẽ không bị xếp vào hành vi vi phạm pháp luật theo như quy định ở trên.
2. Con bao nhiêu tuổi thì được giữ tiền và nếu mẹ lấy tiền lì xì của con thì bị xử lý như thế nào?
Điều 75 Luật Hôn nhân và Gia đình cho biết trẻ em có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của con bao gồm tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của con, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của con và thu nhập hợp pháp khác.
Ngoài ra, pháp luật hiện hành cũng quy định về việc quản lý tài sản riêng như tiền lì xì của con, cụ thể như sau:
– Trẻ em dưới 6 tuổi không được phép tham gia các quan hệ dân sự, việc chi tiêu tiền của trẻ em dưới 6 tuổi do cha mẹ, người giám hộ quyết định.
– Trẻ em từ 6 đến 15 tuổi có quyền tham gia các quan hệ dân sự để phục vụ nhu cầu sinh hoạt của mình.
– Trẻ em từ 15 tuổi trở lên có toàn quyền quyết định đối với tài sản của mình, trừ bất động sản và tài sản tài sản có đăng ký quyền sở hữu.
Như vậy, với trẻ em dưới 6 tuổi, tiền lì xì có thể do cha mẹ giữ nhưng việc sử dụng phải phục vụ cho nhu cầu của trẻ em và cha mẹ không được phép chiếm dụng. Trẻ em 6-15 tuổi có thể giữ tiền mừng tuổi để phục vụ cho các nhu cầu sinh hoạt cá nhân phù hợp với lứa tuổi của mình.
Trẻ em chi tiêu số tiền lớn không phải nhằm phục vụ nhu cầu cá nhân cần có ý kiến của người giám hộ. Trẻ em từ 15 tuổi trở lên hoàn toàn có quyền cầm giữ toàn bộ số tiền mừng tuổi của mình và có toàn quyền chi tiêu mà không phụ thuộc vào ý kiến của cha mẹ.
Cũng theo quy định ở trên Điều 58 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định về hành vi bạo lực về kinh tế như “người nào có hành vi chiếm đoạt tài sản riêng của thành viên trong gia đình sẽ bị phạt tiền từ 20 đến 30 triệu đồng. Theo đó, chỉ khi có hành vi “chiếm đoạt tài sản riêng”của thành viên trong gia đình (cha, mẹ, vợ, chồng, con đẻ, con nuôi, anh, chị, em…) mới bị phạt 20-30 triệu đồng. Mức phạt này tăng mạnh so với quy định cũ tại điểm a khoản 2 Điều 56 Nghị định 167/2013/NĐ-CP (từ 500.000 đến 1.000.000 triệu đồng).
Bởi vậy để có căn cứ xử phạt cha mẹ giữ tiền lì xì của con, nhà chức trách cần xem xét đây có phải là hành vi “chiếm đoạt tài sản riêng của con” hay không. Nếu giữ tiền lì xì của con thường để con tiết kiệm tiền, không tiêu sai mục đích và dùng chi tiêu cho con trong các hoạt động khác thì không bị phạt.
Chiếm đoạt tài sản được hiểu là một người bằng thủ đoạn gian dối hoặc ngang nhiên, công khai chiếm đoạt tài sản của người khác, làm chủ tài sản không còn được sử dụng nó. Do đó, rất hiếm trường hợp, cha mẹ giữ tiền lì xì của con vì muốn chiếm đoạt tài sản của con.
“Quy định pháp luật là vậy nhưng thực tế sẽ khó khi áp dụng, muốn xử phạt được phải căn cứ tố cáo và các chứng cứ liên quan khác. Bởi vậy không phải cứ giữ tiền lì xì của con, cha mẹ sẽ bị xử phạt”.
3. Vợ đánh, đập, nói xấu chồng trên mạng xã hội bị xử phạt như thế nào?
Điều 52 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định về hành vi xâm hại đến sức khỏe thành viên trong gia đình thì bị xử phạt như sau:
1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình.
2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Sử dụng các công cụ, phương tiện hoặc các vật dụng khác gây thương tích cho thành viên gia đình;
b) Không kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu điều trị trong trường hợp nạn nhân cần được cấp cứu kịp thời hoặc không chăm sóc nạn nhân trong thời gian nạn nhân điều trị chấn thương do hành vi bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối.
3. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu đối với các hành vi quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này;
b) Buộc chi trả toàn bộ chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với hành vi quy định tại khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều này.
Theo quy định tại điều 54 Nghị định 144/2021/NĐ-CP thì hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm của thành viên gia đình bị xử phạt như sau:
1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi lăng mạ, chì chiết, xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình.
2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Tiết lộ hoặc phát tán tư liệu, tài liệu thuộc bí mật đời tư của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
b) Sử dụng các phương tiện thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình;
c) Phổ biến, phát tán tờ rơi, bài viết, hình ảnh nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nạn nhân.
3. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu đối với hành vi quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này;
b) Buộc thu hồi tư liệu, tài liệu, tờ rơi, bài viết, hình ảnh đối với hành vi quy định tại các điểm a và c khoản 2 Điều này.
Như vậy từ ngày 1/1/2022 trong trường hợp vợ đánh, đập chồng, lấy hết tiền của chồng hoặc nói xấu chồng trên mạng xã hội thì sẽ bị xử phạt theo quy định tại Nghị định 144/2021/NĐ-CP.
4. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính?
Điều 5. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính
1. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình là 01 năm.
2. Thời điểm để tính thời hiệu phạt vi phạm hành chính được quy định như sau:
a) Đối với hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc thì thời hiệu được tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm;
b) Đối với hành vi vi phạm hành chính đang thực hiện thì thời hiệu được tính từ thời điểm người có thẩm quyền thi hành công vụ phát hiện hành vi vi phạm;
c) Trường hợp xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức, cá nhân do người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính chuyển đến thì thời hiệu xử phạt được áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều này và các điểm a và b khoản này tính đến thời điểm ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Nếu việc bạo hành trong gia đình đến mức gây thương tích, để lại hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình”.
Theo quy định tại khoản 1 điều 185 BLHS 2015, người nào đối xử tồi tệ hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
– Thường xuyên làm cho nạn nhân bị đau đớn về thể xác, tinh thần;
– Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
– Phạm tội theo Khoản 2 Điều 185, tức là thuộc trường hợp phạm tội Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu; Đối với người khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người mắc bệnh hiểm nghèo thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
5. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết
Công ty luật LVN Group (tổng hợp)