Nội dung được biên tập từ chuyên mục tư vấn luật Hôn nhân của Công ty luật LVN Group
>> Luật sư tư vấn pháp luật Hôn nhân, gọi: 1900.0191
1. Cơ sở pháp lý:
– Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
2. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là gì?
Theo khoản 21, Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (HN&GĐ): “Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”.
3. Bất cập pháp lý trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
3.1. Về đối tượng áp dụng phương pháp sinh con khoa học:
Việc xác định đối tượng là cặp vợ chồng vô sinh mà không quy định rõ là cặp vợ chồng hợp pháp theo luật hôn nhân gia đình thì chưa đủ. Nếu chỉ quy định chung chung là “cặp vợ chồng vô sinh” thì những đôi nam nữ chung sống như vợ chồng bị vô sinh cũng được quyền thực hiện phương pháp này.
Ngoài ra, nên bổ sung thêm đối tượng được áp dụng phương pháp sinh con khoa học.
Thứ nhất, cặp vợ chồng sau khi kết hôn không có điều kiện được sống chung với nhau nhưng họ vẫn mong muốn có con (người chồng công tác xa nhà lâu năm, người chồng phải chấp hành án phạt tù,v..v).
Thứ hai, trường hợp khi kết hôn người chồng mắc bệnh nặng không thể giao hợp nhưng không phải cặp vợ chồng vô sinh. Nếu như có được sự đồng thuận cao giữa hai vợ chồng và điều kiện sức khỏe của người mẹ đảm bảo thì có nên cho phép những cặp vợ chồng này áp dụng phương pháp sinh con khoa học?
Khi đó việc xác định cha, mẹ, con trở nên hết sức đơn giản, căn cứ vào nguyên tắc suy đoán mà có thể xác định đứa con là con chung của cặp vợ chồng.
3.2. Về vấn đề quyền lợi của đứa con được sinh ra theo phương pháp khoa học
Trước đây, theo quy định của Nghị định số 12/2003/NĐ-CP thì “việc cho, nhận tinh trùng, phôi phải thực hiện theo nguyên tắc bí mật” (khoản 4 Điều 4), người cho, nhận “không được phép tìm hiểu về tên, tuổi, địa chỉ và hình ảnh” của nhau (khoản 4 Điều 7, khoản 3 Điều 8). Điều đó có xâm phạm đến quyền được biết đến nguồn gốc của mình của đứa trẻ? Thực tế cho thấy có rất nhiều trẻ sinh ra theo phương pháp khoa học khi đến tuổi trưởng thành mong muốn được biết về xuất xứ của mình. Ngoài ra, trong trường hợp đứa con mắc một số bệnh mà cần đến người có cùng huyết thống mới chữa được thì việc đứa con không biết được thông tin về cha của mình là một thiệt thòi rất lớn.
Bên cạnh đó tại Khoản 2 Điều 20 đã quy định đứa trẻ “không được quyền yêu cầu thừa kế, quyền được nuôi dưỡng đối với người cho tinh trùng, trứng, cho noãn, cho phôi”. Vì thế có nên chăng cho phép đứa trẻ được quyền xác nhận nguồn gốc của mình thông qua hệ thống tư liệu điện tử mở như một số nước trên thế giới đã thực hiện? Điều này không làm ảnh hưởng gì đến việc xác định cha, mẹ, con bởi theo quy định người cho tinh trùng, noãn, phôi không có bất kì mối liên hệ pháp lí nào với đứa trẻ. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có văn bản nào quy định cụ thể về vấn đề này. Hơn nữa điều này còn có thể giảm trường hợp người cho tinh trùng và người nhận tinh trùng có cùng dòng máu về trực hệ hoặc có quan hệ họ hàng trong phạm vi ba đời.
3.3. Về việc áp dụng nguyên tắc suy đoán tại khoản 1 Điều 88 Luật HN&GĐ 2014
“Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân” có thể dẫn đến trường hợp cặp vợ chồng vô sinh sau khi đồng ý sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã tiến hành ly hôn nhưng vẫn thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Việc sinh con trong trường hợp này tùy thuộc vào quá trình thực hiện với người vợ cũng như chỉ định của cơ sở y tế, vì thế việc sinh con có thể kéo dài quá 300 ngày. Khi đó, đứa trẻ sinh ra mặc dù là con chung của cặp vợ chồng đã ly hôn nhưng không được xác định là con của người chồng, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các bên, đặc biệt là đứa trẻ.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng chưa quy định trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong trường hợp người chồng hoặc người vợ đã chết. Đây là trường hợp đã xảy ra trong thực tế. Mặc dù việc này tạo cơ hội cho những người đã chết vẫn được sinh con nhưng nó cũng dẫn đến những khó khăn trong việc xác định cha, mẹ, con và ảnh hưởng đến quyền lợi của đứa trẻ như quyền thừa kế.
3.4. Về vấn đề hạn chế ly hôn khi hai vợ chồng đang tiến hành áp dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản
Khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”, quy định này áp dụng cho trường hợp sinh con bình thường, còn trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì chưa có quy định cụ thể, dẫn đến sự lúng túng khi áp dụng, thiết nghĩ việc bổ sung là cần thiết. Bởi lẽ, sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người vợ và người con tương lai.
Trong trường hợp, cặp vợ chồng vô sinh đã sử dụng biện pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nhưng thất bại và nhờ mang thai hộ thì người chồng của người mang thai hộ, người chồng của người nhờ mang thai có bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn không? Đối với người chồng của người mang thai hộ thì nên quy định bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn. Vì khi người vợ của mình nhận mang thai hộ thì người chồng đã đồng ý, điều này cũng có thể hiểu là người chồng sẽ có các nghĩa vụ chăm sóc nhất định đối với người vợ của mình, cho dù không phải là con của hai vợ chồng, đồng nghĩa là người chồng sẽ có thể bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn. Còn với người chồng của người nhờ mang thai hộ thì chỉ nên hạn chế quyền yêu cầu ly hôn khi đứa trẻ được sinh ra và còn sống. Khi đó, sẽ thuộc trường hợp được được quy định trên “sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”.
Trường hợp người chồng muốn ly hôn khi phôi chưa được đưa vào tử cung của người vợ: Nếu quyết định ly hôn xuất phát từ ý chí của hai bên vợ chồng thì nên chăng có quyết định hủy bỏ yêu cầu áp dụng việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Còn trong trường hợp người chồng mất tích thì vẫn có thể tiếp tục thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì đã có sự đồng ý trước đó của người chồng.
3.5. Về vấn đề mang thai hộ
Trong trường hợp mang thai hộ, mặc dù đứa trẻ mang huyết thống của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ và hoàn toàn không mang gen của người mang thai hộ, tuy nhiên, về mặt tình cảm, người mang thai hộ vẫn dễ dàng nảy sinh gắn kết với đứa trẻ khi mang thai. Điều này dẫn đến trường hợp người mang thai hộ không muốn giao con cho vợ chồng nhờ mang thai hộ.
Trong trường hợp người mang thai hộ cố tình không muốn trả con, có thể xảy ra việc người mang thai hộ có thể được coi là mẹ đứa bé đó nếu căn cứ vào giấy chứng sinh mà cơ sở ý tế nơi đứa trẻ sinh ra cấp cho. Vấn đề xác định cha, mẹ, con trong trường hợp này rất phức tạp, nhất là khi không có thỏa thuận rõ ràng.
3.6. Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng biện pháp hỗ trợ sinh sản
Trong trường hợp xác định cha mẹ con cần quy định rõ sau khi đứa trẻ được sinh ra nếu người cha, mẹ không muốn thừa nhận con thì cũng không được yêu cầu xác định lại. Bởi vì họ là người yêu cầu thực hiện việc sinh con bằng biện pháp hỗ trợ sinh sản, quan hệ cha, mẹ và con là tất yếu, không thể phủ nhận. Điều này khác với trường hợp sinh con tự nhiên vì người chồng có quyền yêu cầu xác định lại quan hệ cha con khi không tin tưởng đứa con là con ruột của mình. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt nếu cặp vợ chồng, người phụ nữ độc thân nghi ngờ cơ sở y tế và có thể có sự nhầm lẫn trong quá trình thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì nên chăng cho phép họ được quyền yêu cầu xem xét lại.
3.7. Mang thai hộ vì mục đích thương mại
Thứ bảy, pháp luật cấm hành vi mang thai hộ vì mục đích thương mại. Tuy nhiên chưa có quy định nào về vấn đề giải quyết trong trường hợp xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích thương mại xảy ra tranh chấp nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của đứa trẻ.
4. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, pháp luật cần có những hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp cặp vợ chồng vô sinh áp dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản thì phải là vợ chồng hợp pháp. Điều này giúp cho cơ sở y tế có đầy đủ cơ sở pháp lý để xác định trách nhiệm của vợ chồng đối với toàn bộ quá trình thực hiện việc sinh con theo phương pháp khoa học. Khi có đơn đề nghị, cặp vợ chồng vô sinh phải suất trình được giấy chứng nhận kết hôn. Quy định này nhằm đảm bảo sự ràng buộc về pháp lý quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng, cũng như việc sinh con theo phương pháp khoa học. Đồng thời quy định đó cũng hạn chế được tình trạng lợi dụng việc sinh con theo phương pháp khoa học để thực hiện hành vi trái pháp luật.
Thứ hai, pháp luật cần sửa đổi và quy định cụ thể về trường hợp xác định cha, mẹ, con đối với con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản sau khi thời kỳ hôn nhân của cặp vợ chồng vô sinh chấm dứt. Việc quy định thời gian mang thai tối đa cần được sửa đổi phù hợp cho từng đối tượng đối với từng trường hợp cụ thể. Ngoài ra cần bổ sung quy định về việc xác định cha mẹ cho con trong trường hợp người vợ sinh con bằng cách thụ tinh trong ống nghiệm từ việc kết hợp giữa tinh trùng của người chồng đã mất và noãn của người vợ.
Thứ ba, cần bổ sung các trường hợp được phép thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cụ thể:
Cho phép thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đối với trường hợp chồng bị bất lực về sinh lý hoặc họ không phải là cặp vợ chồng vô sinh nhưng người chồng bị nhiễm chất độc màu da cam, bị nhiễm HIV,… Trong các trường hợp này, nếu thực hiện sinh con bằng biện pháp hỗ trợ sinh sản có thể hạn chế việc lây truyền các bệnh nguy hiểm cho đứa trẻ được sinh ra.
Cho phép thực hiện việc mang thai hộ đối với những cặp vợ chồng không vô sinh nhưng người vợ không có đủ sức khỏe để đảm bảo việc mang thai và sinh con, phổ biến là bệnh tim. Với trường hợp này đồng thời sẽ quy định thêm điều kiện về giấy khám sức khỏe, chỉ định của cơ sở y tế,… để tránh tình trạng lợi dụng pháp luật để thực hiện mang thai hộ bừa bãi.
Thứ tư, cần bổ sung quy định về các biện pháp xử lý cũng như giải quyết tranh chấp trong vấn đề xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích thương mại.
Thứ năm, bổ sung quy định kết hôn giữa những người ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Bởi việc cho nhạn trứng, tinh trùng, phôi được tuân thủ theo nguyên tắc bí mật, cha, mẹ pháp lý và cha, mẹ sinh học của đứa trẻ được sinh ra là khác nhau nên có thể dẫn đến trường hợp đứa trẻ được sinh ra khác nhau dẫn đến trường hợp đứa trẻ đó lớn lên, kết hôn với người có cũng huyết thống về mặt sinh học với mình, gây hậu quả xấu cho xã hội.
Thứ sáu, quy định về vấn đề xác định lại cha mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Do việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản chỉ được tiến hành khi có sự đồng ý của cặp vợ chồng vô sinh. Do đó thông thường không được yêu cầu xác định lại cha, mẹ , con. Pháp luật cần bổ sung quy định cho phép tiến hành xác định lại cha mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không có sự tham gia của người thứ ba là bên cho tinh trùng, trứng, noãn nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên chủ thể.
Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.
Luật LVN Group – Sưu tầm & biên tập