1. Căn cứ xác lập quyền sở hữu là gì?
Quyền sở hữu là một trong những loại quyền mà một chủ thể chỉ có được khi xảy ra một hoặc một số sự kiện pháp lý nhất định. Những sự kiện pháp lý này được gọi là những căn cứ xác lập quyền sở hữu. Nói một cách khác, căn cứ xác lập quyền sở hữu là những tình huống trong đời sống thực tế mà theo pháp luật quy định sẽ dẫn đến phát sinh quyền sở hữu của những chủ thể cụ thể đối với một tài sản nhất định.
Theo Điều 221 Bộ luật dân sự 2015 có các căn cứ xác lập quyền sở hữu như sau:
“1. Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, do hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ.
2. Được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác.
3. Thu hoa lợi, lợi tức.
4. Tạo thành tài sản mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến.
5. Được thừa kế.
6. Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu; tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy; tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên; gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên.
7. Chiếm hữu, được lợi về tài sản theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này.
8. Trường hợp khác do luật quy định.”
2. Xác lập quyền sở hữu trong trường hợp xáp nhập
Sáp nhập tài sản là trường hợp các tài sản thuộc về các chủ sở hữu khác nhau kết hợp lại với nhau tạo ra một tài sản mới (tài sản sáp nhập). Đây được coi là một trong những căn cứ xác lập quyền sở hữu nguyên sinh bởi lý do tài sản mới được tạo ra chưa từng có chủ sở hữu. Khi một tài sản mới được tạo ra do hệ quả của việc sáp nhập tài sản của các chủ sở hữu khác nhau thì cần thiết phải xác định chủ thể nào có quyền sở hữu đối với tài sản mới được tạo ra.
Theo Điều 225 Bộ luật dân sự 2015:
“Trường hợp tài sản của nhiều chủ sở hữu khác nhau được sáp nhập với nhau tạo thành vật không chia được và không thể xác định tài sản đem sáp nhập là vật chính hoặc vật phụ thì vật mới được tạo thành là tài sản thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu đó; nếu tài sản đem sáp nhập là vật chính và vật phụ thì vật mới được tạo thành thuộc chủ sở hữu vật chính, kể từ thời điểm vật mới được tạo thành, chủ sở hữu tài sản mới phải thanh toán cho chủ sở hữu vật phụ phần giá trị của vật phụ đó, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Việc sáp nhập các tài sản lại với nhau có thể diễn ra theo thỏa thuận của các chủ sở hữu hoặc ngoài ý chí của các chủ thể này. Sẽ có các trường hợp sau đây:
– Nếu việc sáp nhập tạo ra tài sản mới có thể phân chia thì các bên hoàn toàn có thể yêu cầu phân chia lại tài sản sáp nhập và nhận lại phần tài sản của mình.
– Nếu việc sáp nhập tạo ra tài sản không thể phân chia thì việc xác lập quyền sở hữu đối với tài sản sáp nhập sẽ được thực hiện theo thỏa thuận của các bên trong những trường hợp sau đây:
+ Thứ nhất, các bên có thỏa thuận về việc sáp nhập tài sản và về việc xác định chủ sở hữu cho tài sản mới được tạo ra;
+ Thứ hai, mặc dù các bên không có thỏa thuận về việc sáp nhập tài sản nhưng khi việc sáp nhập đã diễn ra thì họ có thỏa thuận về việc xác định chủ sở hữu cho tài sản sáp nhập.
Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận thì việc xác định chủ sở hữu cho tài sản sáp nhập không thể phân chia được thực hiện theo nguyên tắc: nếu không thể xác định tài sản đem sáp nhập là vật chính hoặc vật phụ thì vật mới được tạo thành là tài sản thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu đó; nếu tài sản đem sáp nhập là vật chính và vật phụ thì vật mới được tạo thành thuộc chủ sở hữu vật chính, kể từ thời điểm vật mới được tạo thành, chủ sở hữu tài sản mới phải thanh toán cho chủ sở hữu vật phụ phần giá trị của vật phụ đó, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
3. Có được sử dụng tài sản không thuộc sở hữu của mình để sáp nhập không?
Theo Điều 225 Bộ luật dân sự 2015:
Việc sáp nhập tài sản có thể xảy ra đối với tài sản Ịà động sản và bất động sản. Do tính chất của tài sản là động sản và bất động sản, việc xác định chủ sở hữu của tài sản được hình thành do sáp nhập phải dựa trên nguyên tắc bảo đảm sự tồn tại của thực thể tài sản trong tình trạng có thể sử dụng và khai thác một cách bình thường theo đúng chức năng vốn có của tài sản, trừ khi các bên có thỏa thuận khác. Dựa vào tiêu chí phân loại tài sản này, sẽ có các trường hợp sáp nhập tài sản như sau:
– Người sáp nhập tài sản là động sản của người khác vào tài sản là động sản của mình một cách không ngay tình (tức là mặc dù đã biết hoặc có thể biết tài sản đó không phải là của mình và cũng không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập). Trong trường hợp này chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập có một trong các quyền sau:
+ Yêu cầu người sáp nhập tài sản giao tài sản mới cho mình và thanh toán cho người sáp nhập giá trị tài sản của người đó;
+ Yêu cầu người sáp nhập tài sản thanh toán giá trị phần tài sản của mình và bồi thường thiệt hại nếu không nhận tài sản mới;
– Người sáp nhập tài sản là động sản của người khác vào tài sản là bất động sản của mình một cách không ngay tình (tức là mặc dù đã biết hoặc có thể biết tài sản đó không phải là của mình và cũng không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập). Trong trường hợp này chủ sở hữu tài sản bị sáp nhập có một trong các quyền sau:
+ Yêu cầu người sáp nhập tài sản thanh toán giá trị phần tài sản của mình và bồi thường thiệt hại;
+ Quyền khác theo quy định của luật.
– Người sáp nhập tài sản là động sản của mình vào một bất động sản của người khác (không phân biệt ngay tình hay không ngay tình). Trong trường hợp này chủ sở hữu bất động sản có quyền yêu cầu người sáp nhập dỡ bỏ tài sản sáp nhập trái phép và bồi thường thiệt hại hoặc giữ lại tài sản và thanh toán cho người sáp nhập giá trị tài sản sáp nhập, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
4. Xác lập quyền sở hữu trong trường hợp chế biến
Trộn lẫn tài sản là trường hợp các tài sản thuộc về các chủ sở hữu khác nhau kết hợp lại với nhau tạo ra một tài sản mới (tài sản trộn lẫn). Quy định này là sự tiếp nối của quy định về trường họp các tài sản sáp nhập lại với nhau tạo ra tài sản mới tại Điều 225 Bộ luật dân sự. Nếu như thuật ngữ sáp nhập được sử dụng trong trường hợp liên kết giữa các đồ vật có định dạng cứng thì thuật ngữ trộn lẫn được áp dụng với các trường hợp liên kết giữa các đồ vật không có định dạng cố định (dầu ăn, gạo,…). Như vậy, trường hợp trộn lẫn chỉ có thể xảy ra đối với tài sản là động sản. Tương tự như với trường hợp sáp nhập, đây cũng được coi là một trong những căn cứ xác lập quyền sở hữu nguyên sinh bởi lý do tài sản mới được tạo ra chưa từng có chủ sở hữu. Theo Điều 226 Bộ luật dân sự 2015:
“Trường hợp tài sản của nhiều chủ sở hữu khác nhau được trộn lẫn với nhau tạo thành vật mới không chia được thì vật mới là tài sản thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu đó, kể từ thời điểm trộn lẫn.”
Khi một tài sản mới được tạo ra do hệ quả của việc trộn lẫn tài sản của các chủ sở hữu khác nhau thì cần thiết phải xác định chủ thể nào có quyền sở hữu đối với tài sản mới được tạo ra. Việc xác định chủ sở hữu của tài sản được hình thành do trộn lẫn phải dựa trên nguyên tắc bảo đảm sự tồn tại của thực thể tài sản trong tình trạng có thể sử dụng và khai thác một cách bình thường theo đúng chức năng vốn có của tài sản, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.
Việc trộn lẫn các tài sản lại với nhau có thể diễn ra theo thỏa thuận của các chủ sở hữu hoặc ngoài ý chí của các chủ thể này. Sẽ có các trường hợp sau đây:
– Nếu việc trộn lẫn tạo ra tài sản mới có thể phân chia thì các bên hoàn toàn có thể yêu cầu phân chia lại tài sản trộn lẫn và nhận lại phần tài sản của mình.
– Nếu việc trộn lẫn tạo ra tài sản không thể phân chia thì thì vật mới là tài sản thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu. Sở hữu chung được xác lập kể từ thời điểm trộn lẫn tài sản.
5. Trộn lẫn tài sản của người khác vào của mình mà chưa được được sự đồng ý
Theo Khoản 2 Điều 226 Bộ luật dân sự 2015:
“Khi một người đã trộn lẫn tài sản của người khác vào tài sản của mình, mặc dù đã biết hoặc phải biết tài sản đó không phải của mình và không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản bị trộn lẫn thì chủ sở hữu tài sản bị trộn lẫn có một trong các quyền sau đây:
a) Yêu cầu người đã trộn lẫn tài sản giao tài sản mới cho mình và thanh toán cho người đã trộn lẫn phần giá trị tài sản của người đó;
b) Yêu cầu người đã trộn lẫn tài sản thanh toán giá trị phần tài sản của mình và bồi thường thiệt hại nếu không nhận tài sản mới.”
Như vậy, nếu một người đã trộn lẫn tài sản của người khác vào tài sản của mình một cách không ngay tình (tức là biết hoặc phải biết tài sản đó không phải của mình và không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản bị trộn lẫn) thì chủ sở hữu tài sản bị trộn lẫn có một trong các quyền sau đây:
– Yêu cầu người đã trộn lẫn tài sản giao tài sản mới cho mình và thanh toán cho người đã trộn lẫn phần giá trị tài sản của người đó;
– Yêu cầu người đã trộn lẫn tài sản thanh toán giá trị phần tài sản của mình và bồi thường thiệt hại nếu không nhận tài sản mới.
6. Xác lập quyền sở hữu trong trường hợp chế biến
Chế biến vật là trường hợp tạo ra đồ vật mới từ công sức lao động và nguyên vật liệu. Trên thực tế, cần phân biệt các trường hợp chế biến vật, ví dụ: Tạo ra chiếc thuyền từ những mảnh gỗ, tạo ra chiếc bình từ một khối sắt với các trường hợp không được coi là chế biến như: sơn lại một đồ vật, xay thóc thành gạo,… Nhờ có công sức lao động của con người đồ vật mới được tạo ra từ nguyên vật liệu. Trong đồ vật mới này (vật chế biến) có sự kết hợp giữa công sức lao động và nguyên vật liệu. Công sức lao động và nguyên vật liệu là hai thành phần khác nhau tạo nên đồ vật chế biến. Vào thời điểm được chế biến đây là đồ vật chưa từng có chủ sở hữu. Do vậy, đây cũng là một trong những căn cứ nguyên sinh dẫn đến việc xác lập quyền sở hữu.
Theo Điều 227 Bộ luật dân sự 2015:
“1. Chủ sở hữu của nguyên vật liệu được đem chế biến tạo thành vật mới là chủ sở hữu của vật mới được tạo thành.
2. Người dùng nguyên vật liệu thuộc sở hữu của người khác để chế biến mà ngay tình thì trở thành chủ sở hữu của tài sản mới nhưng phải thanh toán giá trị nguyên vật liệu, bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu nguyên vật liệu đó.
3. Trường hợp người chế biến không ngay tình thì chủ sở hữu nguyên vật liệu có quyền yêu cầu giao lại vật mới; nếu có nhiều chủ sở hữu nguyên vật liệu thì những người này là đồng chủ sở hữu theo phần đối với vật mới được tạo thành, tương ứng với giá trị nguyên vật liệu của mỗi người. Chủ sở hữu nguyên vật liệu bị chế biến không ngay tình có quyền yêu cầu người chế biến bồi thường thiệt hại.”
Thứ nhất, nếu chủ sở hữu nguyên vật liệu là người dùng công sức của mình chế biến nguyên vật liệu đó thành đồ vật mới thì đồ vật chế biến thuộc về chủ sở hữu của nguyên vật liệu. Cách giải quyết tương tự cũng được áp dụng trong trường hợp chủ sở hữu thuê người khác chế biến nguyên vật liệu: chủ sở hữu trả công chế biến cho người trực tiếp chế biến và trở thành chủ sở hữu của vật chế biến.
Thứ hai, nếu vật chế biến được tạo thành từ công sức chế biến và nguyên vật liệu của các chủ thể khác nhau thì căn cứ xác định quyền sở hữu đối với vật chế biến phụ thuộc vào việc người chế biến là người ngay tình hay không ngay tình. Cụ thể:
– Nếu người chế biến là người ngay tình thì người đó trở thành chủ sở hữu của vật được chế biến nhưng phải thanh toán giá trị nguyên vật liệu, bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu nguyên vật liệu đó.
– Nếu người chế biến là người không ngay tình thì chủ sở hữu nguyên vật liệu có quyền yêu cầu giao lại vật mới. Trong trường hợp có nhiều chủ sở hữu nguyên vật liệu thì những người này là đồng chủ sở hữu theo phần đối với vật mới được tạo thành, phần của các đồng sở hữu được xác định tương ứng với giá trị nguyên vật liệu của mỗi người. Ngoài ra, chủ sở hữu nguyên vật liệu bị chế biến không ngay tình có quyền yêu càu người chế biến bồi thường thiệt hại.
Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài 24/7 gọi số: 1900.0191 hoặc gửi qua Email : Tư vấn pháp luật qua Email để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ từ Luật LVN Group.
Trân trọng./.