THỰC TRẠNG VI PHẠM KDCN
Theo thống kê, mỗi năm Cục Quản lý Thị trường (Bộ Công thương) phát hiện và xử lý hàng nghìn vụ việc liên quan đến việc sản xuất và tiêu thụ hàng hóa có kiểu dáng “cải tiến” của các kiểu dáng đã được đăng ký bảo hộ KDCN. Thực trạng này không những gây thiệt hại cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính cả về uy tín và doanh thu mà còn trực tiếp gây thiệt hại đến quyền lợi người tiêu dùng.
Từ lâu, cái tên Duy Lợi đã trở nên rất quen thuộc trong ngành võng xếp Việt Nam về cuộc chiến chống hàng giả, hàng nhái. Sau hành trình khó khăn, tốn kém, năm 2004, Công ty TNHH Duy Lợi đã thắng một vụ kiện tại Nhật Bản và năm 2005 đã thắng một vụ kiện khác tại Mỹ về việc vi phạm KDCN. Tuy nhiên, không lâu sau đó, Duy Lợi lại phải đau đầu vì tình trạng vi phạm kiểu dáng võng xếp của doanh nghiệp ở thị trường ViệtNam. Năm 2005, Duy Lợi tuyên bố có tất cả 16 cơ sở, doanh nghiệp sản xuất võng xếp vi phạm kiểu dáng độc quyền sản phẩm võng xếp của mình.
Một ví dụ điển hình khác về vi phạm KDCN là trường hợp xe máy Honda. Thời gian gần đây, nhiều người tiêu dùng bất ngờ thấy có những địa chỉ ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh rao bán các dòng xe Honda Spacy, SCR, AirBlade… với giá 16 triệu đồng/chiếc, thậm chí rẻ hơn. Theo giá niêm yết của Honda, hiện nay Honda Spacy chính hãng nhập khẩu có giá trên 90 triệu đồng/chiếc, còn xe AirBlade giá cũng khoảng trên 30 triệu đồng/chiếc. Như vậy, giá những chiếc xe “chợ đen” nêu trên được rao bán rẻ hơn rất nhiều so với xe gốc. Các sản phẩm xe máy chợ đen không chỉ nhái kiểu dáng bên ngoài, mà còn dán nhãn và gắn mác Honda lên trên sản phẩm. Theo ước tính của các chuyên gia, mỗi năm, thị trường Việt Nam tiêu thụ khoảng hơn 1 triệu chiếc xe máy giả, nhái, trong đó có đến 50% là xe giả, nhái Honda!
>> Luật sư tư vấn Luật sở hữu Trí tuệ qua điện thoại (24/7) gọi số: 1900.0191
Đăng ký bảo hộ kiểu dáng công nghiệp – Ảnh minh họa
Tuy nhiên, không chỉ có các mặt hàng có giá trị lớn mới bị vi phạm quyền KDCN mà cả các mặt hàng có giá trị kinh tế thấp như kem xoa bóp, chai, lọ đựng sản phẩm, thậm chí cả đến bộ khay thờ cúng cũng bị vi phạm KDCN. Các cơ sở sản xuất hàng chợ đen thường lợi dụng uy tín của các doanh nghiệp với sản phẩm đã có thương hiệu để làm nhái, làm giả về kiểu dáng, bao bì, thậm chí nhãn mác. Thực trạng vi phạm ngày càng phức tạp, đa dạng, thiết nghĩ không chỉ gây thiệt hại cho doanh nghiệp và người tiêu dùng, mà đã trở thành mối lo ngại chung của toàn xã hội, gây cản trở đến sự phát triển kinh tế.
Có nhiều lý do khiến tình hình vi phạm KDCN ngày càng trở nên phổ biến và phức tạp. Trước hết, đó là vì hành vi sản xuất hàng giả, hàng nhái luôn tạo ra siêu lợi nhuận. So với hàng thật, hàng giả có mẫu mã, kiểu dáng giống hàng thật, nhưng có giá thành thấp hơn nhiều, do đó thường được khách hàng lựa chọn. Thứ hai, nhiều chủ sở hữu KDCN chưa thực sự ý thức và chú ý đến việc đăng ký bảo hộ độc quyền kiểu dáng sản phẩm của mình, chưa có kế hoạch bảo vệ tài sản sở hữu trí tuệ (SHTT) một cách khoa học. Thực tế, có rất ít doanh nghiệp Việt Nam có bộ phận chuyên chăm lo về SHTT, do đó việc phát hiện vi phạm SHTT nói chung và vi phạm về KDCN nói riêng thường không kịp thời. Một lý do nữa là, việc xử lý vi phạm KDCN mới chủ yếu dừng ở mức xử phạt hành chính, mức phạt cũng chưa đủ sức răn đe đối với đối tượng thực hiện hành vi vi phạm.
TÌNH HÌNH XỬ LÝ VI PHẠM KDCN
Hiện nay, Việt Nam đã có đủ các biện pháp, chế tài xử lý các hành vi vi phạm về SHTT nói chung và KDCN nói riêng. Tuy nhiên, công tác thực thi nhìn chung còn yếu, hầu như mới sử dụng biện pháp xử phạt hành chính (vì quy trình giải quyết đơn giản và nhanh nhất). Các biện pháp xử lý hình sự còn phức tạp, tốn kém và chủ thể quyền SHTT thường gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện bảo vệ quyền SHTT của mình bằng biện pháp này.
Thông thường, trong trường hợp xảy ra vi phạm KDCN, việc giải quyết được thực hiện theo những bước sau: Điều tra thu thập chứng cứ vi phạm; yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thẩm định, đánh giá chứng cứ vi phạm; soạn thảo văn bản cảnh báo bên vi phạm, đàm phán với bên vi phạm để yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm; yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết vi phạm khi không đạt được mục đích thông qua thương lượng, đàm phán.
Theo quy định của pháp luật SHTT hiện hành, chủ thể quyền SHTT phải gửi thông báo bằng văn bản yêu cầu bên vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm và cơ quan thực thi chỉ vào cuộc nếu hành vi vi phạm của bên vi phạm vẫn diễn ra sau khi đã được cảnh báo. Chúng tôi cho rằng, việc yêu cầu bên bị xâm phạm phải có văn bản cảnh báo như vậy là không cần thiết, đôi khi còn “đánh động” bên xâm phạm, dẫn đến những hành động tẩu tán hoặc tiêu huỷ tang vật, chứng cứ. Sự không phù hợp này sẽ được loại bỏ khi Luật SHTT sửa đổi có hiệu lực áp dụng vào năm 2010. Theo đó, doanh nghiệp bị xâm phạm về SHTT chỉ cần chứng minh được hành vi cố ý xâm phạm quyền SHTT của họ là sẽ được thụ lý giải quyết theo trình tự hành chính (thay vì phải tự gửi thông báo tới đối tượng vi phạm và chờ đợi một khoảng thời gian để đối tượng “khắc phục khuyết điểm” như Luật hiện hành).
Một bất cập lớn trong việc thực thi quyền SHTT hiện nay là thiếu sự phối hợp xử lý một cách khoa học của các cơ quan chuyên trách. Hiện nay Việt Nam có tới 6 cơ quan được giao trách nhiệm bảo đảm thực thi về SHTT là toà án; quản lý thị trường; thanh tra (KH&CN, Văn hoá – Thể thao và Du lịch, Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn); công an; hải quan; UBND các cấp. Mặc dù thẩm quyền của mỗi cơ quan đã được quy định rõ trong Nghị định 106 nhưng vẫn có hiện tượng chồng chéo. Điều này không chỉ khiến các chủ thể quyền SHTT lúng túng khi muốn liên lạc mà còn làm chính những cơ quan thực thi này nảy sinh tâm lý đùn đẩy, chờ đợi, dẫm chân lên nhau hoặc mạnh ai nấy làm. Việc có quá nhiều cơ quan chức năng có thẩm quyền xử lý trong khi sự phối hợp giữa các cơ quan này còn chưa hợp lý, khiến hiệu lực thi hành bị phân tán và trở nên phức tạp, gây ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi.
Cho đến nay, chưa có một cuộc điều tra tổng hợp nào về tình hình vi phạm SHTT nói chung và vi phạm KDCN nói riêng tại Việt Nam, mà mỗi cơ quan thực thi lại hoạt động độc lập, đưa ra những con số khác nhau, chưa kể số liệu đưa ra thường không cập nhật. Rõ ràng, chúng ta đang thiếu một đầu mối thống nhất để liên lạc trong trường hợp xảy ra vi phạm quyền SHTT nói chung, quyền KDCN nói riêng.
Trên thực tế, các cơ quan thực thi ở Việt Nam khi xử lý vi phạm thường vẫn còn tâm lý “giơ cao đánh khẽ” và luôn cân nhắc đến khả năng thực tế thi hành nên mức phạt đưa ra thường thấp, do đó không đủ sức răn đe đối với đối tượng vi phạm. Ngoài ra, bản thân các cán bộ chuyên trách xử lý vi phạm chưa hoàn toàn tự tin trong khâu xử lý do năng lực còn yếu, nên thường phải yêu cầu có ý kiến chuyên môn của Cục SHTT trong việc đánh giá hành vi, mức độ vi phạm. Sự phối hợp giữa các cơ quan này cũng chưa hợp lý, dẫn đến kéo dài thời gian xử lý.
BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ QUYỀN KDCN
Trước tình hình vi phạm ngày càng trở nên phổ biến, tinh vi, việc bảo vệ quyền KDCN rất cần sự vào cuộc của toàn xã hội. Tuy nhiên, bản thân doanh nghiệp phải là người chủ động trong việc bảo vệ quyền KDCN của mình. Trước hết, doanh nghiệp phải có ý thức đăng ký bảo hộ KDCN cho sản phẩm do mình sản xuất ra. Tiếp theo, khi đối mặt với hành vi vi phạm quyền KDCN của mình, doanh nghiệp phải tiến hành ngay các công việc cần thiết để yêu cầu cơ quan thực thi xử lý kịp thời các hành vi vi phạm.
Về phía Nhà nước, cần cải cách bộ máy hành chính và phân công lại chức năng, quyền hạn của từng cơ quan thực thi quyền SHTT theo hướng bố trí một cơ quan làm đầu mối tiếp nhận, thụ lý các đơn yêu cầu xử lý hành chính, từ đó đề xuất các biện pháp xử lý. Tăng cường công tác thanh tra và sự phối kết hợp của các cơ quan chức năng để xử lý kịp thời khi phát hiện vi phạm. Bên cạnh đó, cần sắp xếp lại và tăng cường năng lực của các cơ quan thực thi.
Việc bổ sung, hoàn thiện khung pháp lý để có đủ các chế tài xử lý và xử lý hiệu quả là rất cần thiết. Có nhiều ý kiến cho rằng, cần tăng mức phạt xử lý vi phạm hành chính đến mức đủ sức răn đe. Ngoài ra, cần phải bổ sung cơ sở để xác định mức phạt một cách cụ thể vào các văn bản pháp luật hiện hành. Hiện nay, do gặp khó khăn trong việc xác định mức phạt, nhiều cơ quan thực thi thường “ước lệ” mức phạt, và cũng do tâm lý luôn cân nhắc đến khả năng thi hành nên mức phạt đưa ra thường thấp so với giá trị hàng hóa bị vi phạm. Theo Luật SHTT (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ năm 2010, mức phạt tiền ít nhất bằng giá trị hàng hóa vi phạm đã phát hiện được và nhiều nhất không vượt quá 5 lần giá trị hàng hóa vi phạm đã phát hiện được như quy định trước đây (khoản 4 Điều 214 Luật SHTT cũ) được thay thế bằng mức phạt do Chính phủ quy định phù hợp với pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính (tối đa là 500 triệu đồng). Tuy nhiên, căn cứ để xác định mức phạt này vẫn còn chưa rõ ràng, chưa kể mức phạt tối đa được quy định là 500 triệu đồng nếu xét tới các hành vi vi phạm quyền SHTT mang lại lợi nhuận cao như sản xuất, lắp ráp ôtô, xe máy và phụ tùng là còn quá thấp.
Biện pháp trước mắt là phải tiến hành phổ cập kiến thức về SHTT cho toàn xã hội. Từ các doanh nghiệp chủ thể quyền SHTT, đến người dân và đặc biệt là các cán bộ chuyên trách trong xử lý vi phạm. Cuối cùng, nên cân nhắc đến việc hình thành tòa án SHTT chuyên xử lý các vụ vi phạm về quyền SHTT. Ở một số nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ và ngay cả ở châu Á như Malaysia, Singapore đã có tòa án SHTT riêng, bao gồm các thẩm phán và cả các chuyên gia trong lĩnh vực SHTT, nên việc xử lý vi phạm quyền SHTT rất hiệu quả. Tuy nhiên, trong khi chưa thành lập được tòa án chuyên môn, cần thành lập cơ quan trọng tài SHTT gồm đại diện các cơ quan chuyên trách để có thể đưa ra những ý kiến thống nhất trong việc xử lý vi phạm, giúp bảo vệ quyền SHTT nói chung và quyền KDCN nói riêng cho các doanh nghiệp một cách kịp thời, hiệu quả.
SOURCE: TẠP CHÍ HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC SỐ 1 NĂM 2010 – VŨ THỊ YẾN, NGUYỄN TRỌNG TÚ, NGUYỄN VĂN HẢI – Công ty Cổ phần Sở hữu Côngnghiệp INVESTIP, Bộ KH&CN