1. Khái niệm chính sách hình sự
Khái niệm chính sách pháp luật hình sự với tư cách là một bộ phận cấu thành của chính sách hình sự lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1804 trong các công trình của nhà hình pháp học nổi tiếng người Đức Ansel’m Fheirbakh (theo M.p. Chubinskij: Lược sử chính sách pháp luật hình sự: Khái niệm, lịch sử và những vấn đê cơ bản của chính sách pháp luật hình sự với tư cách một yếu tố cấu thành của khoa học luật hình sự, Mátxcơva, 2008, tr. 55-56 (bản tiếng Nga); G.Ju. Lesnikov: Chính sách pháp luật hình sự của Liên bang Nga: Những vấn đê lý luận và thực tiễn, Mátxcơva, 2004, tr.3 (bản tiếng Nga); N.A. Lopashenko: Chính sách hình sự, Mátxcơva, 2009, tr.3 (bản tiếng Nga) và sau đó không chỉ được sử dụng rộng rãi trong khoa học mà còn cả trong thực tiễn pháp luật.
Trong các công trình khoa học của Liên Xô (cũ) thuật ngữ “chính sách hình sự” lần đầu tiên xuất hiện vào những năm 70 của thế kỷ XX. Chính sách hình sự là một lĩnh vực độc lập tương đối, mang tính đặc thù.
Ở Việt Nam, những vấn đề cơ bản của chính sách hình sự được bàn luận vào những năm đầu của thập kỷ 90 thế kỷ XX. Những tác giả quan tâm đến chủ đề đó là GS.TSKH. Đào Trí úc, GS.TS. Võ Khánh Vinh, GS.TSKH. Lê Cảm, GS.TS. Hồ Trọng Ngũ và những tác giả khác (theo Đào Trí úc: Luật Hình sự Việt Nam, Quyển I: Những vấn đê chung, Sđd, tr.176-215; Lê Cảm (Sách chuyên khảo sau đại học): Những vấn đê cơ bản trong khoa học hình sự (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2005; Hồ Trọng Ngũ: Chính sách hình sự dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội ĩân thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Phạm Văn Lợi (Chủ biên): Chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2007; Võ Khánh Vinh: Chính sách hình sự: Những vấn đê lý luận và thực tiễn, Tập bài giảng cho nghiên cứu sinh và cao học, Học viện Khoa học xã hội).
Hiện nay, trong sách báo pháp lý ở nước ta và nước ngoài có các cách tiếp cận khác nhau về chính sách hình sự, do vậy, có các khái niệm khác nhau về chính sách hình sự.
Chính sách hình sự là một loại chính sách pháp luật, một loại chính sách xã hội, một loại chính sách công, một loại chính sách đối nội.
Chính sách hình sự có thể mang tính chất đường lối, chiến lược lâu dài như “Nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “Trừng trị kết hợp với giáo dục cải tạo”… nhưng cũng có thể mang tính chất sách lược được thực hiện trong những giai đoạn nhất định cũng như đối với những loại tội phạm hoặc đối tượng nhất định như chính sách về đấu tranh chống tham nhũng, chống buôn lậu, chống tệ nạn ma tuý, mãi dâm… Chính sách hình sự được thể hiện trong các văn bản của Nhà nước như nghị quyết của Quốc hội, các nghị quyết, các quyết định cũng như các chỉ thị của Chính phủ và đặc biệt được cụ thể hóa trong các đạo luật mà trước hết là Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự. Chính sách hình sự được thực hiện thông qua hoạt động xây dựng luật, giải thích luật và áp dụng luật. Trước hết, chính sách hình sự có tính chiến lược, lâu dài phải được thể hiện trong các quy định của Bộ luật hình sự, đồng thời chính sách hình sự cũng là một trong những cơ sở mà công tác giải thích các điều luật phải dựa vào. Cuối cùng, áp dụng luật cũng không thể tách rời chính sách hình sự, mà phải dựa vào và thể hiện được chính sách hình sự.
Chính sách hình sự là một phần của chính sách xã hội nói chung và là chính sách pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng của một Nhà nước được cấu thành bởi bốn loại chính sách: chính sách phòng ngừa tội phạm, chính sách pháp luật hình sự, chính sách pháp luật tố tụng hình sự và chính sách pháp luật thi hành án hình sự. Trong đó, chính sách hình sự là những phương hướng có tính chất chỉ đạo, chiến lược của Đảng và Nhà nước trong cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. Như vậy, chính sách hình sự suy cho cùng là nhằm đảm bảo thực hiện tốt đường lối xử lý về hình sự và trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay nó góp phần đưa các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền vào đời sống thực tế, giáo dục công dân ý thức tôn trọng, tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tiến tới xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Khách thể tác động của chính sách hình sự là tình hình tội phạm, tức là một hiện tượng pháp luật – xã hội, được thay đổi về mặt lịch sử, tiêu cực, phổ biến, bao gồm hệ thống các tội phạm đã được thực hiện ở một quốc gia (vùng, thế giới) trong một giai đoạn nhất định, được đặc trưng bởi các chỉ số về lượng và chất. Chính sách hình sự tác động đến tình hình tội phạm thông qua hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật và các thiết chế, tô’ chức tham gia phòng ngừa và đấu tranh với tình hình tội phạm.
2. Khía cạnh của chính sách hình sự
Hình sự chính là việc trừng trị những tội phạm xâm phạm nghiêm trọng đến an ninh quốc gia, trật tự xã hội, luật hình sự được hiểu là tập hợp có hệ thống các quy phạm pháp luật xác định rõ những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, đồng thời quy định hình phạt có thể áp dụng đối với người đã thực hiện các tội phạm đó.
Với tư cách là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, luật hình sự có đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh riêng, đồng thời tuân theo một hệ thống các nguyên tắc riêng biệt và có những nhiệm vụ riêng.
– Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội khi tội phạm xảy ra. Nhà nước có quyền buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về việc thực hiện tội phạm thông qua các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
– Người phạm tội có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm hình sự, chịu bị điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, tuy vậy, họ cũng có quyền yêu cầu Nhà nước truy cứu họ đúng với các quy định của pháp luật, đúng người đúng tội.
– Phương pháp điều chỉnh của ngành luật hình sự là phương pháp mệnh lệnh- phục tùng. Theo đó, Nhà nước có quyền buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc các biện pháp cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc nhất, người phạm tội không có cách nào khác ngoài nghĩa vụ tuân thủ.
Quá trình xây dựng và thực hiện chính sách hình sự từ khi hình thành nên tư tưởng cho đến khi thực hiện trên thực tế bao gồm các khía cạnh sau đây:
– Khía cạnh học thuyết: Khía cạnh này đòi hỏi phải tiến hành nghiên cứu lý luận và thực tiễn để soạn thảo các nền tảng lý luận, hình thành và luận chứng các tư tưởng, quan điểm của chính sách hình sự;
– Khía cạnh chính sách mang tính chất chỉ đạo: Khía cạnh này được thể hiện trong các quan điểm, phương châm mang tính chất chính sách hình sự, trong các báo cáo, bài phát biểu của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ở trung ương và địa phương, trong các quan điểm về chính sách xã hội, trong các chiến lược, chương trình phòng ngừa và đấu tranh với tình hình tội phạm và các tài liệu khác;
– Khía cạnh pháp luật và quy phạm chính sách: Khía cạnh này được thê hiện trong các đạo luật đang được soạn thảo và đã được ban hành trên cơ sở các luận điểm của Hiến pháp nước ta nhằm thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của chính sách hình sự để phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm;
– Khía cạnh quản lý: Khía cạnh này bảo đảm sự quản lý việc tổ chức thực hiện trực tiếp chính sách hình sự, được thể hiện ở việc xác định cơ cấu, các chức năng, nhiệm vụ và việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của các chủ thê’ của chính sách hình sự, ở việc bảo đảm các nguồn lực cho hoạt động của các chủ thể đó;
– Khía cạnh áp dụng pháp luật: Khía cạnh này được thể hiện trong hoạt động áp dụng pháp luật của những người có chức vụ, quyền hạn thuộc các cơ quan bảo vệ pháp luật trong phòng ngừa và đấu tranh với tình hình tội phạm, bao hàm cả việc thực hiện pháp luật nói chung và thực hiện pháp luật theo các định hướng cụ thê’ nói riêng, việc bảo đảm áp dụng các hình thức và các giải pháp đê’ phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm.
3. Thuộc tính của chính sách hình sự
Chính sách hình sự là một hệ thống, có các thuộc tính nhất định. Đó là: tính phức tạp, tức là sự hiện có các tiểu hệ thống và các yếu tố; tính cơ cầu, tức là sự hiện có các bộ phận cấu thành cơ bản; tính tố chức, tức là sự hiện có các mối liên hệ và sự lệ thuộc giữa các bộ phận cấu thành và chính sách hình sự với tư cách là sự thống nhất chỉnh thể.
Quan niệm về chính sách hình sự với tư cách một hệ thống phức tạp, có cơ cấu, tính tổ chức bên trong nhất định, phản ánh được địa vị hiện thực của chính sách hình sự, khắc phục được tính đơn phương diện và bảo đảm được tính đa phương diện trong nghiên cứu khoa học về lĩnh vực này của chính sách nhà nước.
4. Yếu tố chính sách pháp luật hình sự
Chính sách hình sự bao gồm các bộ phận hay các yếu tố cấu thành sau đây: chính sách pháp luật hình sự, chính sách pháp luật tố tụng hình sự, chính sách pháp luật điều tra hình sự, chính sách pháp luật thi hành án hình sự, chính sách phòng ngừa tình hình tội phạm.
Chính sách pháp luật hình sự là hoạt động có căn cứ khoa học, nhất quán và hệ thống của các cơ quan xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật nhằm soạn thảo và áp dụng các luận điểm chung của pháp luật hình sự, xác định các nhóm hành vi tội phạm và hệ thống hình phạt, xây dựng các chế tài trong các cấu thành tội phạm cụ thể và lựa chọn các biện pháp tác động công bằng và hợp lý đối với những người phạm tội.
5. Nội dung của chính sách pháp luật hình sự
Nội dung của chính sách pháp luật hình sự bao gồm:
– Xác định những luận điểm chung và các nguyên tắc của luật hình sự, khả năng sử dụng luật hình sự để phòng ngừa và đấu tranh với tình hình tội phạm;
– Soạn thảo các tiêu chí để coi một hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm (tiêu chí tội phạm hóa);
– Xác định hệ thống hình phạt, các chế tài hình sự;
– Xác định các định hướng hoạt động của các cơ quan xây dựng pháp luật hình sự;
– Xác định các định hướng hoạt động của các cơ quan áp dụng pháp luật hình sự;
– Những vấn đề khác.
Trên đây là nội dung Luật LVN Group sưu tầm và biên soạn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại số: 1900.0191 để được giải đáp.
Rất mong nhận được sự hợp tác!
Trân trọng./.