Khách hàng: Kính thưa Luật sư LVN Group, liên quan tới các yếu tố cấu thành năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế, yếu tố cơ sở vật chất kĩ thuật là gì? Luật sư hãy giúp tôi phân tích, làm rõ yếu tố cơ sở vật chất kĩ thuật trong áp dụng biện pháp tự vệ thương mại quốc tế.
Cảm ơn!
Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến công ty chúng tôi, câu trả lời của bạn Luật sư bên công ty sẽ trả lời với những ý chính như sau:
1. Khái quát về biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế, yếu tố cơ sở vật chất kĩ thuật
a. Biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
– Đối với thuật ngữ “tự vệ” theo WTO được hiểu là hành động khẩn cấp của nước nhập khẩu trước việc gia tăng nhập khẩu của một loại hàng hoá cụ thể, khi mà sự gia tăng nhập khẩu này gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hóa đó trong nước.
Tuy nhiên, đây chỉ là quan niệm, cách hiểu cơ bản và vận dụng về biện pháp tự vệ, không phải là định nghĩa phản ánh đầy đủ bản chất của hành động tự vệ. Vì vậy, trong các tài liệu nghiên cứu về tự vệ của WTO có đưa ra thêm một số giải thích bổ sung.
– Trong tài liệu giải thích về Điều XIX Hiệp định GATT 1994, ở mục 797 khi nhắc đến phán quyết của Uỷ ban phúc thẩm trong vụ kiện Argentina – Footwear nêu rõ biện pháp tự vệ theo qui định tại Điều XIX có đặc trưng là tính khẩn cấp, được áp dụng chỉ duy nhất trong trường hợp mà do kết quả của việc thực hiện nghĩa vụ theo Hiệp định GATT 1994, một thành viên nhận thấy quốc gia mình rơi vào những hoàn cảnh mà “không lường trước được” hoặc “ngoài dự đoán” khi đặt ra/đàm phán và ký kết cam kết liên quan.
– Theo Yong Shik Lee, Safeguard Measures in world trade, The Legal Analysis, Third Edition (2014) (Các biện pháp tự vệ trong thương mại thế giới: Phân tích pháp lý. Tái bản lần 3 (2014)) xác định, thuật ngữ “biện pháp tự vệ” được sử dụng để đề cập đến hạn chế nhập khẩu, được áp dụng như là một biện pháp tạm thời khi có sự gia tăng nhập khẩu gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa của sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp.
Theo Yong Shik Lee, tự vệ còn có thể hiểu rộng hơn, gồm những trường hợp các bên “dị ngược lại” với những cam kết của mình và hạn chế nhập khẩu, không tính đến việc có hay không hành vi thương mại không lành mạnh: Điều XIX, XII, XVIII Hiệp định GATT 1994, Hiệp định Tự vệ (Hiệp định SG), Hiệp định nông nghiệp (AOA), Điều XII Hiệp định GATS. Nghị định thư gia nhập WTO của Trung Quốc, cho phép tự vệ cụ thể và đặc biệt là đến các sản phẩm trong thời gian chuyển đổi, chỉ áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu từ nước này. Biện pháp tự vệ nói chung (Điều XIX của GATT) được áp dụng cho mọi loại hàng hoá, trong khi những biện pháp tự vệ khác chỉ áp dụng giới hạn cho một số hàng hoá (sản phẩm nông nghiệp, dệt may), hoặc có thể không hướng đến việc bảo vệ hay ngăn ngừa thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước (đối với trường hợp sử dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu để bảo vệ cán cân thanh toán).
– Theo Giáo trình về luật thương mại quốc tế ở Việt Nam cũng có những cách định nghĩa về tự vệ theo cách xác định tại Điều XIX Hiệp định GATT 1994 và Hiệp định SG. Theo đó:
+ Thứ nhất, theo giáo trình Luật Thương mại quốc tế – Phần I trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016) định nghĩa biện pháp tự vệ là: “… một trường hợp ngoại lệ của hệ thong thương mại GATT/WTO, theo đó trong một sể trường hợp đặc biệt khẩn cấp, thành viên WTO được phép miễn thực hiện một số nghĩa vụ theo qui định của GATT và các cam kết WTO liên quan. Việc thực hiện các biện pháp tự vệ thương mại phải đáp ứng và tuân thủ các điều kiện nhất định được qui định tại Điều XIX của Hiệp định GATT 1994 và Hiệp định tự vệ”.
+ Thứ hai, theo giáo trình Luật Thương mại quốc tế trường Đại học Kinh tế quốc dân (2015), biện pháp tự vệ thương mại được hiểu là: “… việc tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một so hàng hoá khỉ việc nhập khẩu những hàng hoá này tăng nhanh đột biến đến mức gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hoả cùng loại trong nước… ”.
b. Yếu tố cơ sở vật chất kĩ thuật
Trong các yếu tố cấu thành năng lực áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế như: Cơ sở pháp lý về tự vệ thương mại; Bộ máy tổ chức; Yếu tổ năng lực con người trong áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tể; Cơ sở vật chất kĩ thuật; Tài chính; Sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về tự vệ thương mại với các tổ chức và doanh nghiệp thì cơ sở vật chất kĩ thuật là một trong những yếu tố cấu thành nó.
Theo đó, một trong những điều kiện quyết định để thực thi áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại là hạ tầng cơ sở về vật chất, kỹ thuật và công nghệ.
Theo từ điển bách khoa, các từ vật chất, kỹ thuật và công nghệ có nghĩa là:
– Vật chất cùng với không gian và thời gian là những vấn đề cơ bản mà tôn giáo, triến học cũng như vật lý học nghiên cứu. Các thực thể vật chất có thể ở dạng từ trường, hoặc dạng chất (cấu tạo bởi các hạt chất, thường có khối lượng nghỉ) và chúng đều chiếm không gian…
– Kỹ thuật (engineering), là việc ứng dụng kiến thức khoa học để mang lại giá trị thực tiễn như việc thiết kế, chế tạo, vận hành những công trình, máy móc, quy trình, và hệ thống một cách hiệu quả và kinh tế nhất. Ngành kỹ thuật vô cùng rộng, nó bao gồm một loạt các lĩnh vực kỹ thuật đặc thù hơn, mỗi lĩnh vực nhấn mạnh đến những lĩnh vực công nghệ và những kiểu ứng dụng riêng.
– Công nghệ là sự ứng dụng những phát minh khoa học vào những mục tiêu hoặc sản phẩm thực tiễn và cụ thể phục vụ đời sống con người, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp hoặc thương mại.
– Các yếu tố cơ sở vật chất kĩ thuật có thể đặc biệt kể đến là hệ thống máy tính kết nối mạng, thư viện và các cơ sở dữ liệu về các vụ việc tự vệ thương mại; Nguồn tài chính cho hoạt động điều tra, áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại quốc tế. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu và thông tin là một tổng thể gồm nhiều vấn đề phức tạp đan xen nhau ttong một mối quan hệ hữu cơ giữa phần cứng, phần mềm, giải pháp mạng…
Dưới đây chúng ta sẽ cùng nhau đi tìm hiểu từng đặc điểm đó.
2. Đối với phần cứng
Để xây dựng và vận hành hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin về tự vệ thương mại phải đáp ứng một số điều kiện mang tính chất bắt buộc đối với hệ thống phần cứng khi triển khai thực hiện như:
– Các thiết bị phải có cấu hình mạnh;
– Các thiết bị phải có khả năng thay thế nóng;
– Các thiết bị máy chủ phải có khả năng chạy các chương trình ứng dụng, tương thích với hệ thống khác, đảm bảo các chương trình phần mềm và luồng trao đổi dữ liệu được thông suốt;
– Có khả năng cảnh báo lỗi.
3. Đối vợi phần mềm
Hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin về tự vệ thương mại, đặc biệt là hệ thống cảnh báo sớm đối với phòng vệ thương mại nói chung và tự vệ thương mại nói riêng đòi hỏi phải thông qua mạng Internet nên nội dung của các phần mềm triển khai phải đạt được mục đích điện toán hoá các hoạt động trên môi trường mạng. Ngoài ra, câc khâu tự động hoá trong hệ thống có thể được phân ra thành khu vực:
– Quản lý danh mục thành viên đăng ký sử dụng: thông tin cơ bản về thành viên đăng ký sử dụng có thể bao gồm mã số người dùng, số chứng minh, địa chỉ liên hệ, số lần truy cập, phân loại cá nhân và tổ chức, đối tượng trong nước và ngoài nước …
Thông tin phục vụ cho việc cung cấp thông tin về tự vệ thương mại:
– Phần mềm có khả năng phân loại thông tin cung cấp thành thông tin chung và thông tin chuyên sâu.
– Thông tin chung liên quan tới hoạt động xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước, các thông báo tự vệ thương mại, các vấn đề về tiêu chuẩn, chất lượng và đo lường trên thế giới.
– Thông tin chuyên sâu liên quan đến những thông tin đã qua xử lý theo các mục đích sử dụng khác nhau. Đó là sản phẩm của quá trình tổng hợp, phân tích tình hình xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật của các nước, các hàng hoá có khả năng nhập khẩu ồ ạt với khối lượng lớn.
4. Đối với hệ thống giao tiếp
Hoạt động qua hệ thống mạng Internet cần dựa trên cơ sở tự động hoá hoàn toàn. Chính vì vậy, điều kiện đặt ra là phải đầu tư công nghệ tiên tiến và hiện đại, nó quyết định tới tính khả thi của hệ thống, bao gồm:
– Chống truy cập trái phép từ bên ngoài vào hệ thống mạng và từ bên trong hệ thống mạng;
– Kiểm soát hoạt động truy cập khai thác dữ liệu của các đối tượng truy cập;
– Dữ liệu trên đường truyền và dữ liệu lưu trữ phải được mã hoá;
– Kiểm tra được tính đúng đắn của thông tin, người sử dụng; Bảo vệ tính chuẩn xác của chương trình và các tham số quan trọng khác của hệ thống;
– Giám sát hoạt động của hệ thống nhằm không ngừng tăng cường khả năng bảo mật cho hệ thống.
5. Đối với giải pháp mạng
Để có thể ứng dụng hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin về tự vệ thương mại qua mạng đòi hỏi phải có hạ tầng cơ sở Internet tốt, đường truyền có tốc độ cao có khả năng phục vụ cho người dùng truy cập vào trang mạng một cách nhanh chóng, thuận lợi. Dự tính được giải pháp mở rộng hệ thống mạng trong phạm vi toàn quốc là công việc quan trọng nhất của công tác phát triển dịch vụ cung cấp thông tin về tự vệ thương mại, giúp người sử dụng dịch vụ trên cả nước có thể truy cập cùng một lúc với số lượng lớn.
Bên cạnh đó, an toàn bảo mật cho hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin về tự vệ thương mại trong môi trường Internet bao hàm nhiều vấn đề lớn, trong đó gồm cả an toàn bảo mật cho phần cứng và phần mềm hệ thống, vấn đề càng đặc biệt quan trọng khi những tài nguyên của một hệ thống lưu trữ và xử lý một khối lượng thông tin lớn, những vấn đề có thể tác động tới nhiều ngành hàng, nhiều loại hình doanh nghiệp.
Như vậy, hệ thống mạng nội bộ của hệ thống phải được thiết lập và có độ bảo mật và an toàn cao, mỗi bộ phận trong hệ thống phải được phân quyền truy cập; việc phân phối tài nguyên phục vụ cho người sử dụng, đảm bảo tính xác thực cũng như ngăn chặn tấn công vào hệ thống thông tin thông qua kiểm soát việc truy cập và xây dựng bức tường lửa với những quy định về an toàn bảo mật chặt chẽ; đảm bảo không mất dữ liệu khi số lượng người truy cập lớn và sao lưu khi có sự cố; đảm bảo cho dữ liệú trên đường truyền được thông suốt từ hệ thống tới người nhận và ngược lại.
Trân trọng!