NỘI DUNG YÊU CẦU:

Chào Công ty Luật LVN Group, em tên là Văn Hòa. Hiện tại, em đang sinh sống và làm việc ở Hà Giang. Trong quá trình nghiên cứu và làm việc, em có gặp phải một số vấn đề liên quan đến thi hành án hình sự, cụ thể là về án phạt tù. Em có gửi câu hỏi đến công ty mình như sau: Bạn hãy nêu rõ về bản chất và nội dung của hình phạt tù có thời hạn và không thời hạn? Mong công ty phản hồi sớm. Em xin trân thành cảm ơn công ty mình.

NỘI DUNG TƯ VẤN:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi yêu cầu tư vấn đến Công ty Luật LVN Group của chúng tôi, bạn có thể tham khảo nội dung câu trả lời dưới đây của chúng tôi về bản chất và nội dung của hình phạt tù có thời hạn và không thời hạn như sau:

1. ​Khái niệm hình phạt tù:

Hình phạt tù về thực chất là tước một số quyền tự do, giam giữ người bị kết án phạt tù tại trại giam, cách ly người đó khỏi môi trường xã hội bình thường để thực hiện các mục đích của hình phạt là đảm bảo công lý, công bằng xã hội, cải tạo, giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm. Trong hệ thông hình phạt, hình phạt tù có hai loại: tù có thời hạn và tù không thời hạn(tù chung thân).

2. Tù có thời hạn

Trong hệ thống hình phạt hiện hành, tù có thời hạn giữ một vị trí hết sức quan trọng. Đây là hình phạt lâu đòi nhất và phổ biến nhất. Tù có thời hạnlà buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời gian nhất định. Như vậy, tù có thời hạn về thực chất là giam người bị kết án ở các trại giam, tức là cách ly người đó ra khỏi môi trường xã hội bình thường để giáo dục và cải tạo họ. Chế độ giam trong trại giam, hình thức giáo dục và cải tạo ở đó do pháp luật về thi hành án quy định. Hiện nay, vấn đề này chủ yếu được quy định tại Pháp lệnh thi hành án phạt tù năm 1993.

Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tốỉ thiểu là ba tháng, mức tối đa là hai mươi nám (Điều 33 BLHS năm 1999). Tuy nhiên, đây phải hiểu là thời hạn chung. Các chê tài cụ thể trong phần các tội phạm của BLHS quy định những thời hạn tù cụ thể đối với từng cấu thành tội phạm cụ thể, còn các Tòa án thì quyết định trong các bản án của mình những mức án tù cụ thể. Trước đây, BLHS năm 1985 ngoài quy định vê’ thời hạn chung tôì đa của hình phạt tù, còn quy định thời hạn tôi đa của hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội là 12 năm (khoản 2 Điều 64 BLHS năm 1985). Hiện nay, BLHS năm 1999 đã bỏ quy định này và thay vào đó quy định mức hình phạt cao nhất đối với người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi được áp dụng không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật quy định, đối với người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không quá 1/2 mức phạt tù mà điều luật quy định (Điều 74 BLHS năm 1999).

Trong lịch sử pháp luật hình sự, tù có thời hạn là hình phạt điển hình nhất và đã được quy định ngay từ khi có luật hình sự. Cho đến nay, loại hình phạt này đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung theo từng giai đoạn phát triển của đất nước. Kết quả sửa đổi gần đây nhất được thể hiện trong BLHS nám 1999 mà tập trung nhất là quy định tại Điều 33. So với quy định tương ứng tại Điều 25 BLHS năm 1985, Điều 33 BLHS năm 1999 có những điểm mới đáng chú ý sau đây:

Thứ nhất, theo Điều 25 BLHS năm 1985 thì tù có thời hạn được quy định chung chung, tù có thời hạn là hình phạt buộc người bị kết án phải bị giam. Trong khi đó, Điều 33 của Bộ luật mới nói rõ hơn rằng tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam một thời gian nhất định. Quy định cụ thể đó nhằm khẳng định việc cách ly người bị kết án ra khỏi xã hội và đồng thời chỉ rõ quá trình cải tạo của người bị kết án được thực hiện tại trại giam với những chế độ cải tạo, giáo dục nhất định. Tính chính xác của điều luật mới thể hiện rất rõ qua nội dung này;

Thứ hai, cũng theo Điều 25 BLHS năm 1985 thì tù có thời hạn là từ ba tháng (mức tốì thiểu) đến hai mươi năm (mức tôì đa). Điều 33 BLHS năm 1999 nói rõ hơn: tù có thời hạn đốĩ với người phạm một tội có mức tôì thiểu là ba tháng và mức tối đa là hai mươi năm. Đây là giới hạn được áp dụng đối với một tội, nghĩa là nếu phạm hai tội thì hình phạt chung có thể không bị giối hạn bởi mức tốì đa như đổì với một tội. Theo quy đinh của BLHS năm 1999, nếu phạm nhiều tội đều bị xử phạt tù có thời hạn thì khi tổng hợp mức phạt tù cụ thể khi quyết đỊnh hình phạt thì Điều 50 BLHS năm 1999 cho phép là 30 năm.

Tù giam với nội dung là sự cách ly và hạn chế tự do đối với người bị kết án, ngoài những tác dụng mà nhà làm luật mong muôn, còn có khả năng gây những hiệu ứng trái chiều. Chẳng hạn, việc hạn chế lâu dài các chức năng xã hội bình thường của một con người làm tê liệt, làm lãng quên các thói quen xã hội có ích ở họ như học tập, quan hệ cha con, mẹ con, vợ chồng, bạn bè, nghề nghiệp… Sau này, việc khôi phục lại các quan hệ đó là cả một sự khó khăn đáng kể. Chính vì vậy mà lý luận luật hình sự xã hội chủ nghĩa cũng như thực tiễn đấu tranh chống tội phạm ỗ nước ta đã đi đến một điều khẳng định là: trong những trường hợp, khi mà mục đích của hình phạt vẫn có thể đạt được mà không cần đến cách ly người phạm tội ra khỏi môi trường bình thường của xã hội, thì cần áp dụng các hình phạt không phải hình phạt tù. Trong BLHS của nước ta, quy tắc đó được cụ thể hóa bằng cách đưa ra quy tắc ở Phần chung cho phép Tòa án có thể chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn hoặc quy định các chê tài lựa chọn ỏ Phần các tội phạm của BLHS, trong đó bên cạnh hình phạt tù là các hình phạt không phải là tù. Hạn chế những mặt phản tác dụng của hình phạt tù cũng là lý do của việc không ngừng bổ sung các hình phạt có khả năng thay thế hình phạt tù, nhất là đối với loại hình phạt tù có mức tù ngắn hạn.

Nói đến hình phạt nói chung, cũng như hình phạt tù nói riêng, ngoài mối tương quan giữa hình phạt đó với các hình phạt không phải là tù, thì sự hiện diện (quy định) của nó trong các chế tài của các điều luật cụ thể cũng nói lên cường độ sử dụng nó và đồng thời nói lên tính chất của chính sách hình sự của Nhà nước. Ở nghĩa đó, cần phải có một nhận xét về các chế tài của Phần các tội phạm của BLHS nước ta là: hiện nay, tù có thời hạn còn “có mặt” ở tất cả các chế tài và con số những chế tài lựa chọn hầu như rất ít ỏi. Điều 47 BLHS như đã nói ỏ trên, quy định khả năng của các Tòa án vận dụng việc chuyển loại hình phạt, nhưng điều đó chỉ quy định trường hợp “có nhiều tình tiết giảm nhẹ”. Theo chúng tôi, cách quy đỉnh hiện nay của các chê tài của Phần các tội phạm là một trong những hạn chế của BLHS nước ta cần được khắc phục.

3. Tù chung thân

3.1 Khái niệm về tù chung thân:

Tù chung thân là hình phạt tù giam không thời hạn hay còn gọi là tù suốt đời. Đây là hình phạt rất nghiêm khắc mà nội dung của nó là tưóc quyền tự do của người bị kết án không có thời hạn (suốt đời). Trong BLHS nước ta, hình phạt này được quy định chủ yếu trong các chương về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh, các tội đặc biệt nghiêm trọng trong các chương xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, các tội xâm phạm sở hữu và tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.

3.2 Đặc điểm của tù chung thân:

Do tính chất đặc biệt nghiêm khắc của mình, tù chung thân chỉ được áp dụng đối với người phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình. Đó là những trường hợp tội phạm xâm hại đến những khách thể rất quan trọng của pháp luật hình sự, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi người phạm tội rất lớn, nhân thân người phạm tội là rất xấu, tập trung nhiều tình tiết nghiêm trọng nêu trong Điều 48 BLHS, hậu quả gây ra rất nghiêm trọng… Quy định này nói lên tính chất đặc biệt nghiêm khắc của hình phạt tù chung thân và sự thận trọng khi áp dụng hình phạt này.

Tù chung thân không được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Quy định này biểu hiện nguyên tắc nhân đạo và là bước phát triển mới của pháp luật hình sự nước ta. Trước đây, Bản chuyên đề sơ kết kinh nghiệm về việc xét xử các vụ án về người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân tối cao ngày 16/01/1976 quy định chỉ áp dụng rất hạn chê tù chung thân đối với người chưa thành niên ở lứa tuổi 16 và 17.

Bên cạnh việc được áp dụng trong trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng chưa đến mức phạt tử hình, tù chung thân còn hiện diện với tính cách là hình phạt để lựa chọn với hình phạt tù có thời hạn đối với những tội đặc biệt nghiêm trọng có các tình tiết tăng nặng như các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia, giết người có các tình tiết tăng nặng, các tội nghiêm trọng xâm phạm nghĩa vụ trách nhiệm của quân nhân, các tội đặc biệt nghiêm trọng chông loài người và tội phạm chiến tranh.

Trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tù chung thân về cơ bản giống như trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tù có thời hạn. Đây là một hình phạt rất nghiêm khắc nên việc áp dụng được cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng và chỉ áp dụng đối với những trường hợp phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng nhưng chưa đến mức tử hình. Trong trường hợp xét ân giảm án tử hình, tù chung thân được coi là “hình phạt đệm” để thay thê hình phạt tử hình, để hạn chế việc áp dụng hình phạt đặc biệt này.

Cảm ơn quý khách đã gửi yêu cầu đến Công ty Luật LVN Group, trên đây là nội dung tư vấn của Công ty, nội dung tư vấn có giá trị tham khảo, nếu còn vấn đề mà quý khách hàng còn chưa rõ xin vui lòng liên hệ đến tổng đài của Công ty Luật LVN Group 1900.0191 hoặc vui lòng gửi tin nhắn đến email [email protected] để được giải đáp thắc mắc. Trân trọng!

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty Luật LVN Group