NỘI DUNG TƯ VẤN:

1. Cơ sở pháp lý:

Luật hiến pháp năm 2013;

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Luật thi hành án hình sự số 41/2019/QH14 ban hành ngày 14 tháng 06 năm 2019;

Nghị định số 133/2020/NĐ-CP ban hành ngày 09 tháng 11 năm 2020 hướng dẫn Luật Thi hành án hình sự;

2. Bản chất của hình phạt tử hình:

2.1 Tử hình là hình phạt đặc biệt:

Trong hệ thống hình phạt, tử hình được coi là loại hình phạt đặc biệt. Tính chất đặc biệt đây trước hết được so sánh với các hình phạt khác trong cùng hệ thống, thể hiện ở chỗ: Một là, đây là loại hình phạt nghiêm khắc nhất mà nội dung của nó là tưốc bỏ quyền sống của con người với ý nghĩa là loại trừ vĩnh viễn người phạm tội ra khỏi xã hội; Hai là, nếu mọi hình phạt khác đều hàm chứa cả nội dung trừng trị với cải tạo giáo dục, và do đó mục đích của chúng được thể hiện ở việc lập lại công lý, công bằng xã hội, phòng ngừa tội phạm và giáo dục cải tạo người phạm tội, thì tử hình loại bỏ mọi khả năng giáo dục, cải tạo người phạm tội, nghĩa là hình phạt này chỉ có tác dụng trừng trị, phòng ngừa mà không có tác dụng cải tạo, giáo dục; Ba là, loại hình phạt này chỉ được áp dụng trong những trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và việc áp dụng, thi hành loại hình phạt này phải tuân theo một thủ tục nghiêm ngặt đến mức dường như pháp luật tìm cách ngăn cản việc áp dụng và thi hành hình phạt mà chính pháp luật quy định.

2.2 Xu hướng phát triển của hình phạt tử hình:

Do ảnh hưởng mạnh mẽ của nguyên tắc nhân đạo, cùng với sự phát triển của xã hội loài người, việc quy định và áp dụng hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang ngày càng thu hẹp. Nếu tính tại thời điểm năm 1989 có 35 nước bãi bỏ loại hình phạt này thì đến năm 1999 con số này đã tăng lên gần 80 nước. Những nước còn duy trì loại hình phạt này phần lớn là ở châu Á, châu Phi và 38/51 bang của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.

3. Nội dung của hình phạt tử hình:

Ở nước ta, việc giữ lại hình phạt tử hình vẫn còn cần thiết do yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm đang diễn ra quyết liệt trên mọi lĩnh vực trong hoàn cảnh phức tạp của đất nước. Điều này được lý giải bởi các lý do sau: Thứ nhất, ở nước ta trong giai đoạn hiện nay vẫn tồn tại nhiều trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng mà mọi hình phạt, ngoại trừ hình phạt tử hình, không đủ khả năng đảm bảo được công lý, lập lại công bằng xã hội. Công lý đòi hỏi mọi chủ thể phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình. Trong lĩnh vực hình sự thì yêu cầu này được biểu hiện thông qua nguyên tắc: hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm. Như vậy, nếu loại bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình trong giai đoạn hiện nay, thì trong nhiều trường hợp, công lý sẽ khó được đảm bảo, công bằng xã hội khó được khôi phục, và do vậy, ý nghĩa giáo dục chung, phòng ngừa chung (cũng như phòng ngừa riêng) khó đạt tói yêu cầu mà xét một cách khách quan là có khả năng đạt tới; Thứ hai, yêu cầu của phòng ngừa tội phạm, phòng ngừa chung cũng như phòng ngừa riêng vẫn cần thiết có sự trợ giúp của hình phạt tử hình. Trong tình hình hiện nay, hình phạt tử hình vẫn còn cần thiết để phòng ngừa tội phạm chung cũng như riêng. Phải thừa nhận, trong số’ những người phạm tội vẫn còn những kẻ ngoan cố, sẵn sàng phạm tội khi có điều kiện, họ phạm tội không chỉ trong môi trường xã hội bình thường, mà ngay cả trong những hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo, như đang trong thời gian chấp hành hình phạt, thậm chí đang trong thời gian tù họ cũng có thể phạm tội. Ngoài ra, đến nay chúng ta vẫn chưa thể khẳng định được 100% là những người bị phạt tù không thể trốh trại. Nếu xét từ yêu cầu phòng ngừa chung, rõ ràng trình độ dân trí, ý thức pháp luật, thói quen, tập quán pháp luật trong xã hội ta chưa phải là cao, vì vậy, nếu không có những biện pháp răn đe đủ mạnh thì khó có thể ngăn ngừa, dập tắt những ý đồ phạm tội của một số phần tử thoái hoá, biến chất. Thông thường, trước khi thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật, chủ thể thường trăn trở với những câu hỏi: khả năng thành công? Khả năng bị phát hiện? Khả năng chạy tội? Cái giá phải trả nếu bị phát hiện? Giá phải trả càng thấp thì khả năng chuyển ý định phạm tội thành hành động thực tế càng lốn; Thứ ba, yêu cầu đảm bảo chất lượng cuộc sống của xã hội, đảm bảo an toàn xã hội trong điều kiện hiện tại đòi hỏi trong nhiều trường hợp phải áp dụng hình phạt tử hình. Như trên đã nói, một người tù trốn trại, một phần tử được coi là đặc biệt nguy hiểm thoát ra khỏi sự kiểm soát của pháp luật sẽ đe doạ đến sự an toàn của xã hội, làm nhiều người (chẳng hạn những người đã từng làm chứng chống lại người phạm tội) phải sống trong lo âu, sợ hãi, và do đó chất lượng cuộc sống không được đảm bảo. Chính những lý do này là cơ sở để trong những giới hạn nhất định, hình phạt tử hình vẫn được giữ lại trong luật hình sự của ta.

Mặt khác, công bằng mà nói, mặc dù tử hình là hình phạt nghiêm khắc tước đoạt quyền sống của người phạm tội, là hình phạt chỉ có tác dụng trừng trị và phòng ngừa mà không có tác dụng giáo dục, cải tạo, nhưng điều đó không có nghĩa là loại hình phạt này mâu thuẫn với nguyên tắc nhân đạo của pháp luật, Ở đây cần thấy rằng tính nhân đạo được tập trung thể hiện một cách triệt để ở khía cạnh xã hội, tức là ở việc phòng ngừa, răn đe phạm tội, bảo đảm an toàn xã hội, đảm bảo chất lượng cuộc sống. Cũng cần nhắc lại rằng khi nói đến nhân đạo, chúng ta thường xem xét trưóc hết là từ phía người phạm tội mà đôi khi đánh giá chưa hết lợi ích của người khác và của xã hội. Việc thường nhấn mạnh khía cạnh cá nhân người phạm tội xuất phát từ ý nghĩ cho rằng .trong hoàn cảnh tô tụng, người phạm tội luôn được coi là bên yếụ thế hơn so với Nhà nước.

Việc duy trì hình phạt tử hình ở nước ta hiện nay mang tính cần thiết khách quan, nhưng điều đó không có nghĩa là hình phạt này hoàn toàn không thay đổi hoặc không thay đổi trong một thời gian dài. Ngược lại, thay đổi về nội dung, hình thức loại hình phạt này luôn là vấn đề thường trực trong chủ trương, chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước. Mọi khả năng thay đổi loại hình phạt này đêu được tận dụng một cách tối đa. Điều này được thể hiện rõ trong lịch sử phát triển của pháp luật thực định cũng như trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, tổng kết công tác xét xử và thi hành án tử hình cho thấy, mặc dù pháp luật đã có những thay đổi theo hướng hạn chế hình phạt tử hình, giảm thiểu khả năng lựa chọn hoặc ấp dụng hình phạt tử hình, cơ chế tổ chức thi hành án tử hình đã từng bước được hoàn thiện, tuy nhiên vẫn còn những vướng mắc, bất cập cần được khắc phục. Chẳng hạn, việc hình phạt tử hình ở nước ta được quy định với phạm vi rộng hơn so với một số nước khác có đúng, có hợp lý hay không? Những vấn đề về tạm hoãn thi hành án, hình thức thi hành án, thời hạn thi hành án,… Chính vì vây, cùng với cải cách tư pháp và đổi mới công tác thi hành án nói chung, việc đổi mới tổ chức thi hành hình phạt tử hình và hạn chế án tử hình được Bộ Chính trị xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới. Trong Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 củá Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới nêu rõ: “Trên cơ sở tổng kết, đánh giá về công tác thi hành án, cần sớm xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan thi hành án, bảo đảm các quyết định, bản án của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh. Xây dựng đề án thay đổi việc tổ chức thi hành án tử hình và nghiên cứu hạn chế án tử hình trong BLHS”. ở đấy, Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị chỉ rõ hai nội dung cần được xem xét trong lĩnh vực án tử hình là: đổi mối tổ chức thi hành án tử hình; và hạn chế án tử hình trong tư pháp hình sự.

Một câu hỏi luôn đặt ra khi nghiên cứu và thực hiện việc hạn chế hình phạt tử hình là: căn cứ vào tiêu chí nào để hạn chê hình phạt tử hình trong giai đoạn này hay giai đoạn khác? Hạn chế ở mức nào là đủ? Hạn chế ở các lĩnh vực nào? Mức độ, cách thức hạn chế?

Hình phạt là hệ quả tất yếu của tội phạm, chỉ tồn tại trong mối quan hệ nhân quả với tội phạm và là mối quan hệ mang tính chất tương xứng. Hình phạt tử hình, một bộ phận của hệ thống hình phạt, cũng tồn tại trên cơ sở tồn tại những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, người phạm tội đặc biệt nguy hiểm. Phạm vi, giới hạn quy định và áp dụng hình phạt tử hình cũng thay đổi theo sự biến động của các tội phạm nói trên. Như vậy, điều kiện có ý nghĩa cơ sở cho việc hạn chế hình phạt tử hình chính là sự thay đổi về tính chất của tội phạm.

Việc hạn chế hình phạt tử hình có thể thực hiện được trong tất cả các lĩnh vực xây dựng và áp dụng pháp luật. Trong lĩnh vực lập pháp, việc hạn chê hình phạt tử hình được thực hiện thông qua quá trình phi hình sự hoá. Còn trong thực tiễn áp dụng pháp luật, hình phạt tỏ hình được hạn chế thông qua các quy định phức tạp, chặt chẽ, ngày càng có nhiều yếu tố nhân đạo đối với việc lựa chọn, áp dụng và thi hành hình phạt tử hình.

Việc hạn chê hình phạt tử hình thông qua quá trình phi hình sự hổầ được thực hiện bằng nhiều hình thức (mức độ). Chẳng hạn, loại bỏ hoàn toàn khả năng áp dụng hình phạt tử hình đối với một số loại tội nào đó; giảm nhẹ trách nhiệm bằng cách tăng cường các điều kiện cho phép áp dụng, thay đối điều kiện áp dụng theo hướng có lợi hơn đối với người bị kết án; hình phạt tử hình luôn được quy định trong chế tài lựa chọn.

Xu hướng hạn chê áp dụng hình phạt tử hình trong thực tiễn áp dụng pháp luật được thực hiện trong cả hoạt động xét xử, cả trong hoạt động thi hành án. Trong hoạt động xét xử, hình phạt tử hình luôn là phương án lựa chọn cuối cùng của Hội đồng xét xử. Có thể nói, mọi tình tiết, dù là nhỏ nhất có ảnh hưởng đến việc giảm nhẹ trách nhiệm, giảm nhẹ hình phạt đều được các Toà án sử dụng triệt để nhằm từ chốỉ lựa chọn hình phạt tử hình.

Thực tiễn áp dụng pháp luật còn chứng kiến một cách nữa hạn chế áp dụng hình phạt tử hình, đó là việc quy định thủ tục, trình tự thi hành hình phạt tử hình hết sức chặt chẽ, nghiêm ngặt, hạn chế đến mức tối đa khả năng đưa bản án tử hình ra thi hành.

Cảm ơn quý khách đã gửi yêu cầu đến Công ty Luật LVN Group, trên đây là nội dung tư vấn của Công ty, nội dung tư vấn có giá trị tham khảo, nếu còn vấn đề mà quý khách hàng còn chưa rõ xin vui lòng liên hệ đến tổng đài của Công ty Luật LVN Group 1900.0191 hoặc vui lòng gửi tin nhắn đến email [email protected] để được giải đáp thắc mắc. Trân trọng!

Bộ phận tư vấn pháp luật – Công ty Luật LVN Group