Khoản 6 Điều 45 Luật cạnh tranh năm 2018 quy định cấm hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác cùng kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó. Hành vi này có cấu thành gần giống với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường quy định tại điểm a khoản 1 Điều 27 Luật cạnh tranh.

Như vậy, theo Luật cạnh tranh năm 2018, đây là loại hành vi chịu sự điều chỉ của cả hai chế định về hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh. Hiện tại chưa rõ quan điểm của nhà làm luật khi thiết kế điều luật theo hướng này. Có quan điểm cho rằng, do việc áp dụng các quy định về hạn chế cạnh tranh khá phức tạp nên nhà làm luật đưa dạng hành vi này vào cả phạm vi áp dụng pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh để thuận tiện trong việc xử lí vi phạm. Tuy nhiên, theo thực tiễn tại các quốc gia có hệ thống pháp luật cạnh ttanh phát triển, khó khăn lớn nhất trong việc xử lí dạng hành vi này (còn gọi là predatory pricing – định giá huỷ diệt) chủ yếu nằm ở yêu cầu chứng minh tác động loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, nội dung này tại hai điều khoản của Luật cạnh tranh năm 2018 không có sự khác biệt đáng kể.

Mặt khác, có thể thấy trong khi hành vi tại điểm a khoản 1 Điều 27 xem xét tác động đến “đối thủ cạnh tranh”, nghĩa là các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan của doanh nghiệp vi phạm, thì hành vi tại khoản 6 Điều 45 đề cập các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá, dịch vụ cùng loại, có nghĩa là đánh giá tác động trên phạm vi rộng hơn. Như vậy, có thể hiểu trong trường hợp không thể đánh giá tác động của hành vi trên thị trường liên quan để áp dụng quy định chống lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, cơ quan cạnh tranh sẽ mở rộng phạm vi đánh giá tác động để áp dụng quy định về cạnh tranh không lành mạnh tại khoản 6 Điều 45.

Chi phí lưu thông hàng hóa, cung ứng dịch vụ bao gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ hàng hóa, cung ứng dịch vụ sau đây:

1. Tiền lương.
2. Các khoản phụ cấp phải trả cho nhân viên bán hàng.
3. Hoa hồng đại lý, hoa hồng môi giới.
4. Tiếp thị.
5. Đóng gói.
6. Bao bì.
7. Vận chuyển.
8. Bảo quản.
9. Khấu hao tài sản cố định.
10. Vật liệu.
11. Dụng cụ, đồ dùng.
12. Bốc dỡ hàng hóa.
13. Dịch vụ mua ngoài.
14. Chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn cho nhân viên bán hàng theo quy định của pháp luật.
15. Chi lãi vay vốn kinh doanh.
16. Chi phí quản lý doanh nghiệp được phân bổ cho việc lưu thông hàng hóa, dịch vụ.
17. Chi phí bảo hành sản phẩm.
18. Chi phí quảng cáo.
19. Các chi phí bằng tiền khác theo quy định của pháp luật.

Vậy, Giá thành toàn bộ là gì ? Theo quy định tại Khoản 12, Điều 4, Luật Giá năm 2012:

Giá thành toàn bộ của hàng hoá, dịch vụ là giá thành tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ, bao gồm:

a) Giá thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ; giá mua hàng hoá, dịch vụ đối với tổ chức, cá nhân hoạt động thương mại;

b) Chi phí lưu thông để đưa hàng hoá, dịch vụ đến người tiêu dùng.

Đồng thời, Nghị định 75/2019/NĐ-CP cũng hướng dẫn rõ việc xác định mức tiền phạt, mức tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó. Nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tiền phạt tối đa của khung tiền phạt. Đối với mỗi tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng, mức tiền phạt xác định theo quy định tại khoản này được điều chỉnh giảm hoặc tăng tương ứng không quá 15% mức trung bình của khung hình phạt.

Như vậy, nếu tổng hợp các chi phí lưu thông hàng hóa hoặc dịch vụ kể trên mà giá bán lại thấp hơn thì có căn cứ áp dụng luật cạnh tranh để xử lý hành vi này.

Mọi vướng mắc liên quan đến luật canh tranh, Hãy gọi ngay: 1900.0191 để được luật sư tư vấn pháp luật cạnh tranh trực tuyến qua tổng đài điện thoại.

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật cạnh tranh – Công ty luật LVN Group