1. Kiểm tra, giám sát nghiêm ngặt và toàn diện hoạt động tư pháp

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện của Đảng nhấn mạnh yêu cầu tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước nhằm đề cao kỷ cương, kỷ luật. Thể chế hóa sâu sắc chủ trương của Đảng, Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (khoản 3 Điều 2). Kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước là yêu cầu tất yếu, khách quan nhằm bảo đảm cho quyền lực vận hành đúng đắn và hiệu quả. Quyền lực không được kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ sẽ bị tha hóa, lạm quyền, đi ngược lại mong muốn và lợi ích của Nhân dân. Khép kín, thiếu kiểm tra, giám sát, kiểm soát trong tố tụng hình sự càng dẫn đến những nguy cơ nghiêm trọng hơn bởi lẽ đây là lĩnh vực liên quan trực tiếp đến công cuộc đấu tranh phòng, chống vi phạm và tội phạm, đến cuộc sống bình yên của nhân dân, trật tự, kỷ cương xã hội; đồng thời, toàn bộ quá trình đó đụng chạm đến những quyền thiêng liêng nhất, đến sinh mệnh, quyền tự do của con người. Do đó, phải đặc biệt quan tâm thiết lập các cơ chế nhằm kiểm tra, giám sát, kiểm soát nghiêm ngặt và toàn diện hoạt động tư pháp. Chính các cơ chế này sẽ góp phần quan trọng làm nên hiệu quả của nền tư pháp.

2. BLTTHS 2015 bảo đảm quá trình giải quyết vụ án hình sự có sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ

Trước đây, việc giám sát của các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được đề cập trong đoạn 3 Điều 8 BLTTHS năm 1988. Đó là một trong những nội dung của nguyên tắc “Việc tham gia tố tụng hình sự của các tổ chức xã hội và công dân”.

Trong BLTTHS năm 2003, nội dung này đã được tách ra thành nguyên tắc cơ bản và được bổ sung đầy đủ, rõ ràng hơn, để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp, theo tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị: “Tăng cường sự giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân, của các tổ chức xã hội và của nhân dân đối với công tác tư pháp”.

Quán triệt yêu cầu của Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung. Trước hết, bổ sung vào hệ thống các nguyên tắc cơ bản nguyên tắc kiểm tra, giám sát, kiểm soát trong tố tụng hình sự (Điều 33).

Quy định mọi hoạt động của các cơ quan tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án phải được kiểm tra, giám sát, kiểm soát chặt chẽ bỗi nhiều cơ chế, bao gồm cả cơ chế tự kiểm tra bên trong mỗi hệ thống và cơ chế giám sát từ bên ngoài hệ thống. Quy định cụ thể việc giám sát của ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan dân cử đối với hoạt động tố tụng hình sự và trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc trả lời yêu cầu, kiến nghị của các cơ quan này. Kiện toàn cơ chế nhằm tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra của cơ quan tố tụng cấp trên với cơ quan tố tụng cấp dưới nhằm phát hiện kịp thời những sai sót, vi phạm để có biện pháp khắc phục, xử lý. Quy định cơ chế kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan tố tụng, theo đó khâu sau có trách nhiệm giám sát kết quả của khâu trước, loại bỏ chứng cứ do khâu trước thu thập bằng các biện pháp trái luật; đồng thời, quá trình tiến hành tố tụng, khâu sau có trách nhiệm thông báo các kết quả giải quyết vụ án cho các giai đoạn tố tụng trước. Quy định cụ thể, minh bạch các thủ tục tố tụng, bổ sung trách nhiệm và hình thức công khai các quyết định tố tụng nhằm tạo điều kiện để người dân dễ tiếp cận công lý và tăng khả năng giám sát của xã hội đối với quá trình giải quyết vụ án hình sự. Những sửa đổi, bổ sung này sẽ là cơ sở quan trọng góp phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của nhân dân.

Với những nội dung đổi mới nêu trên có thể khẳng định rằng, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã thể chế hóa sâu sắc chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Hiến pháp năm 2013 về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cải cách tư pháp, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài. Bộ luật được triển khai trong thực tiễn sẽ tạo bước chuyển mạnh mẽ, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, xây dựng nền tư pháp thực sự dân chủ, nghiêm minh, tôn trọng con người, trách nhiệm trước nhân dân.

3. Trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền

“Cơ quan, người có thấm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra việc tiến hành các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền; thực hiện kiếm soát giữa các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án” (khoản 1 Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự 2015)

Hoạt động kiểm tra trong tố tụng hình sự là việc xem xét, nhận xét, đánh giá thực trạng tiến hành tố tụng. Kiểm soát là xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định. Hoạt động kiểm tra, kiểm soát là những hoạt động mang tính hành chính và phải được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện thường xuyên, liên tục để đánh giá kết quả các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền của mình.

Để bảo đảm kiểm tra, kiểm soát có hiệu quả, việc kiểm tra, kiểm soát phải thực hiện theo một tiến trình qua các bước khác nhau: Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xuất phát từ thực tiễn tố tụng xây dựng kế hoạch kiểm tra, kiểm soát thường xuyên hoặc định kì, xác định thực trạng hoạt động tố tụng, so sánh với các quy định pháp luật để xác định mức độ sai phạm trong hoạt động tố tụng, tìm nguyên nhân và thực hiện các biện pháp cần thiết để sửa chữa sai phạm, bảo đảm hoạt động tố tụng được tiến hành đúng pháp luật.

Để thực hiện tốt việc kiểm tra, kiểm soát trong tố tụng hình sự đòi hỏi cơ quan, người có thẩm quyền phải chủ động, nghiêm túc tiến hành kiểm tra, kiểm soát thường xuyên, khi phát hiện sai phạm trong hoạt động tố tụng phải thực hiện các biện pháp khắc phục, xử lí nghiêm cá nhân vi phạm pháp luật, tránh tình bao che sai phạm.

4. Quyền giám sát của các cơ quan nhà nước, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên

“Cơ quan nhà nước, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tô tụng; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.” (khoản 2 Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự 2015)

Chủ thể có quyền giám sát theo quy định này là cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của các cơ quan, người tiến hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiêu nại, tố cáo của các cơ quan, người có thẩm quyển tiến hành tố tụng. Đối tượng của việc giám sát là các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Phạm vi giám sát là các họạt động của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng va việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, ngươi có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Biện pháp giám sát theo quy định của nguyên tắc này: Nếu phát hiện những hành vi trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì cơ quan nhà nước, đại biêu dân cử có quyền yêu cầu, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định của BLTTHS.

5. Trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong việc xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị

Nguyên tắc kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự quy định tại Điều 33 BLTTHS 2015 cũng xác định trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền phải xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật. Điều 33 BLTTHS năm 2015 quy định: Nếu phát hiện hành vi trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử có quyền yêu cầu, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, giải quyết theo quy định của Bộ luật này. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật.

Việc giám sát áp dụng pháp luật trong hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, bảo đảm tính công khai, rõ ràng, minh bạch trong hoạt động của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; tăng cường trách nhiệm và tính chủ động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân thông qua cơ quan nhà nước, tổ chức, đại biểu dân cử đối vói hoạt động tư pháp. Qua đó góp phần bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đúng pháp luật, tránh bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.

Để thực hiện việc giám sát có hiệu quả cần phải có những quy định rõ ràng, thống nhất, hợp lí về việc giám sát hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng làm cơ sở cho việc thực hiện; nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật và tinh thần chủ động của nhân dân và đại diện cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đại biểu dân cử trong đấu tranh chống những vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực sự tôn ttọng những kiến nghị của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đại biểu dân cử và nghiêm túc xem xét giải quyết những kiến nghị đó.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm)