1. Người bị buộc tội là gì?

Điểm đ khoản 1 Điều 4 Bộ luật TTHS năm 2015 đã đưa ra giải thích (khái niệm) về người bị buộc tội như sau: “Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”.

Có thể thấy, nội hàm của khái niệm người bị buộc tội mới chỉ dừng lại ở hình thức liệt kê với tư cách là các chủ thể tham gia TTHS mà chưa làm rõ được một cách khái quát nội dung về các thành tố tạo nên chủ thể đó. Do đó, cần thiết phải nghiên cứu và tìm ra một khái niệm thống nhất về người bị buộc tội để có cơ sở xác định chính xác địa vị pháp lý của họ.

Trước hết, phải khẳng định người bị buộc tội là người hoặc pháp nhân thương mại bị tình nghi thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, họ không phải bị tình nghi thực hiện tội phạm một cách thiếu căn cứ, mà sự tình nghi này phải được đặt trong một tiến trình TTHS theo luật định. Việc tình nghi trong TTHS khác hẳn với sự ngờ vực hay suy đoán mang tính chủ quan, cảm tính của cá nhân con người với con người trong đời sống xã hội. Trong trường hợp này, người hoặc pháp nhân thương mại bị tình nghi thực hiện tội phạm được đặt trong hoàn cảnh họ bị cơ quan, người có thẩm quyền dựa vào các căn cứ trên thực tế để xác định rằng họ là chủ thể đã thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm hoặc đã thực hiện hành vi phạm tội được Bộ luật hình sự quy định. Không chỉ dừng lại ở đó, người bị buộc tội phải là người hoặc pháp nhân thương mại đã bị cơ quan, người có thẩm quyền đưa ra một quyết định tố tụng cụ thể như: Lệnh bắt; quyết định tạm giữ; quyết định khởi tố bị can; quyết định truy tố; quyết định đưa vụ án ra xét xử… Các quyết định này dù là để thể hiện việc áp dụng một biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế hay là một quyết định tố tụng được luật định theo các giai đoạn tố tụng khác nhau thì đều gắn với chủ thể bị buộc tội và họ có các quyền, nghĩa vụ, họ trở thành người tham gia tố tụng.

Tóm lại, người bị buộc tội là người hoặc pháp nhân thương mại mà cơ quan, người có thẩm quyền, bằng quyết định tố tụng, xác lập tư cách của họ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự khi có căn cứ cho rằng họ đã thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, hoặc đã thực hiện hành vi phạm tội.

2. Người bị buộc tội gồm những ai?

Người bị buộc tội theo quy định của pháp luật bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và bị cáo.

– Người bị bắt bao gồm người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã.

– Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này.

– Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này.

3. Phạm vi những người được xác định là người bị buộc tội theo quy định hiện nay đã đầy đủ chưa?

Cách giải thích thuật ngữ “người bị buộc tội” tại điểm đ khoản 1 Điều 4 Bộ luật TTHS năm 2015, có thể thấy người bị buộc tội chỉ bao gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Có quan điểm cho rằng, phạm vi những người được xác định là người bị buộc tội như vậy là chưa đầy đủ; theo đó, cần bổ sung thêm cả người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp cũng là người bị buộc tội. Bởi vì các lý do sau:

Thứ nhất, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, dù với tối đa là 12 giờ, nhưng theo các trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp được quy định tại khoản 1 Điều 110 Bộ luật TTHS năm 2015, thì người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là người đã thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm hoặc đã thực hiện hành vi phạm tội được Bộ luật hình sự quy định.

Thứ hai, Điều 58 Bộ luật TTHS năm 2015 có quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và người bị bắt là như nhau. Trong đó, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp có quyền “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”; quyền “Tự bào chữa, nhờ người bào chữa”. Qua nghiên cứu cho thấy, đây đều là những quyền rất cơ bản của người bị buộc tội. Hơn nữa, theo khoản 1 Điều 72 Bộ luật TTHS năm 2015: “Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa”. Rõ ràng, nếu người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp không phải là người bị buộc tội thì quy định về quyền “Tự bào chữa, nhờ người bào chữa” mâu thuẫn với quy định về người bào chữa nêu trên.

4. Quyền và nghĩa vụ của nhóm người bị buộc tội

Với cách tiếp cận và quan niệm về người bị buộc tội nêu trên thì quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị buộc tội được thể hiện thông qua quyền và nghĩa vụ pháp lý của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

Theo Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, người bị bắt có các quyền và nghĩa vụ sau:

– Người người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã có quyền:

  • Được nghe, nhận lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định truy nã;
  • Được biết lý do mình bị giữ, bị bắt;
  • Được thông báo, giải thíchvề quyền và nghĩa vụ quy định của BLTTHS 2015.
  • Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
  • Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
  • Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tố tụng kiểm tra, đánh giá;
  • Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
  • Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giữ người, bắt người.

– Người bị bắt có nghĩa vụ chấp hành lệnh giữ người, lệnh bắt người và yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền giữ người, bắt người theo quy định của BLTTHS 2015.

Theo Điều 59 BLTTHS 2015:

– Quyền của người bị tạm giữ

  • Được biết lý do mình bị tạm giữ; nhận quyết định tạm giữ, quyết định gia hạn tạm giữ, quyết định phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này;
  • Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
  • Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;
  • Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;
  • Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
  • Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
  • Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng về việc tạm giữ.

– Người bị tạm giữ có nghĩa vụ chấp hành các quy định của Bộ luật này và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam.

Quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo cũng được quy định cụ thể tại Điều 60, 61 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

5. Bổ sung quyền và nghĩa vụ của nhóm người bị buộc tội

Người bị buộc tội là nhóm những người tham gia tố tụng dễ bị tổn thương, quyền và lợi ích hợp pháp của họ dễ bị xâm hại. Để có cơ sở pháp lý và tạo điều kiện cho họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định bổ sung một số quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng. Cụ thể là:

– Quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. Quy định về quyền của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội quy định tại các Điều 58, 59, 60 và 61 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 là một trong những quyền quan trọng của người bị buộc tội, phù hợp với Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 mà Việt Nam là thành viên.

– Đối với bị can, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung quyền đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu.

Về quyền này nhiều ý kiến cho rằng, theo quy định hiện hành, trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, bị can đã được biết lý do khởi tố, được giải thích quyền và nghĩa vụ; có quyền trình bày lời khai, được đọc lại trước khi ký bản cung; được nhận tất cả các quyết định tố tụng liên quan đến việc buộc tội, kể cả bản kết luận điều tra tổng hợp đầy đủ các chứng cứ vụ án. Các thông tin, căn cứ buộc tội bị can về cơ bản đã được cung cấp kịp thời để bị can thực hiện quyền bào chữa, đưa ra yêu cầu, khiếu nại việc thu thập chứng cứ mà không phải đọc hồ sơ khi kết thúc điều tra mới biết. Việc quy định bị can được quyền đọc, sao chép các tài liệu hồ sơ là khó khả thi trong điều kiện nước ta hiện nay (khác với một số nước có điều kiện số’ hóa hồ sơ cho phép bị can tiếp cận hồ sơ qua máy vi tính để bảo đảm an toàn hồ sơ). Ngoài ra, một số ý kiến còn cho rằng, không nên quy định quyền này của bị can, bị cáo vì sẽ gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp trong thực tiễn thi hành, nhất là đối với những vụ án có đông bị can, các vụ án kinh tế, tham nhũng lớn. Tuy nhiên, để thực hiện quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, đồng thời, tạo điều kiện cho bị can, bị cáo tham gia tố tụng có hiệu quả và bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định, bị can có quyền đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số’ hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm & Biên tập)