1. Bộ luật là gì ?

Một hình thức văn bản quy phạm pháp luật có mức độ hệ thống hoá cao nhất, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trên một hoặc nhiều lĩnh vực khác nhau.

Các bộ luật đã được xây dựng trong thời kì cổ đại ở các nhà nước chiếm hữu nô lệ như Bộ luật Hammưrabi của nhà nước chủ nô Babylon thế kỉ XVIII trước Công nguyên, Bộ luật Dracon của nhà nước Hi Lạp cổ đại năm 621 trước Công nguyên, Bộ luật Manu của Ấn Độ khoảng thế kỉ thứ II trước Công nguyên đến thế kỉ thứ I, Bộ luật XII Bảng của nhà nước La Mã cổ đại thế kỉ V trước Công nguyên. Thời kì trung đại, nhà nước phong kiến đã có những bộ luật nổi tiếng như Bộ luật Lombardie thế kỉ XII được xây dựng nên bởi các toà án thành phố Milan và các thành phố phía Bắc Italia, Bộ luật tục Normandie năm 1275 của Pháp, Bộ luật Saxon thế kỉ XIII của Đức, Bộ hội điển luật lệ Fleta năm 1290 của Anh, Bộ hội điển luật lệ năm 1649 của Nga, Các bộ luật của nhà nước phong kiến Trung Quốc gồm Bộ luật nhà Tần thế kỉ III trước Công nguyên, Bộ Cửu chương luật của nhà Hán (khoảng từ năm 206 trước Công nguyên đến năm 220), Bộ luật nhà š Đường thế kỉ VII, Bộ Tống hình luật thế kỉ X – XI, Bộ Ï luật Đại Minh (nửa cuối thế kỉ XIV đến nửa đầu thế kỉ XVII), Bộ Đại Thanh luật (khoảng nửa cuối thế kỉ XVII) và Bộ Đại Thanh luật lệ (năm 1740) của triều đình Mãn Thanh. Nhà nước phong kiến Việt Nam cũng đã xây dựng được khá nhiều bộ luật như Bộ hình thư thời nhà Lý, Bộ quốc triều hình luật thời kì nhà Trần, Bộ luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật), Bộ quốc triều thư khế thể thức, Bộ quốc triều khám tụng điều lệ, Bộ quốc triều chiếu lệnh thiện chính thời kì nhà Lê, Bộ Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) thời kì nhà Nguyễn. Các bộ luật thời kì nhà nước chủ nô và nhà nước phong kiến (thời kì cổ đại và trung đại) được biên soạn dưới sự chỉ đạo của hoàng đế và do hoàng đế ban hành thông thường là những bộ tổng luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội khác nhau bao gồm cả hình sự lẫn dân sự, hành chính, đất đai, lao động, thương mại, hôn nhân và gia đình…

Các văn bản quy phạm pháp luật được viện dẫn ở trên được ban hành trong các nhà nước chiếm hữu nô lệ, phong kiến do có tính hệ thống hoá cao (ngày nay gọi là pháp điển hoá cao) nên thường được các nhà sử học, luật học gọi là bộ luật, nhưng bản thân các văn bản đó chưa có tên gọi là bộ luật. Các văn bản của nhà nước phong kiến Việt Nam – Hình thư đời Lý, đời Trần, Quốc triều hình luật đời Lê, Hoàng Việt luật lệ đời Nguyễn đều chưa có tên gọi bộ luật. Ở Việt Nam, ngay các bộ luật được ban hành dưới thời thuộc địa, bảo hộ Pháp như Dân luật Nam Kỳ, Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật… cũng chưa có tên gọi bộ luật. Nói cho chặt chẽ, các bộ luật chỉ có thể được ban hành trong thời kì cận đại và hiện đại do cơ quan lập pháp là Nghị viện làm ra và chỉ điều chỉnh một loại quan hệ xã hội nhất định như hình sự, dân sự, thương mại, lao động, đất đai, bầu cử, thuế, hải quan… như Bộ luật dân sự Napôlêông 1804, Bộ luật thương mại năm 1807, Bộ luật hình sự 1810 của Pháp… Hiện nay, nhiều nước trên thế giới thường có các bộ luật sau: bộ luật hình sự, bộ luật dân sự, bộ luật tố tụng hình sự, bộ luật tố tụng dân sự, bộ luật thương mại, bộ luật đất đai, bộ luật lao động, bộ luật bầu cử, bộ luật thuế, bộ luật hải quan, bộ luật hàng không, bộ luật bảo vệ người tiêu dùng… Bộ luật thông thường được cấu thành bởi các chương, điều, khoản và giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bộ luật là kết quả của hoạt động pháp điển hoá pháp luật.

Có thể hiểu: Bộ luật là cũng một văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành nhưng nhằm điều chỉnh bao quát và rộng hơn luật. Bộ luật tác động rộng rãi đến các quan hệ xã hội, nội dung bao hàm và liên quan nhiều lĩnh vực trong xã hội. Bên cạnh đó, bộ luật được dẫn chiếu và điều chỉnh các vấn đề mà nội dung của nó không được quy định ở những luật (chuyên ngành) khác và các dẫn chiếu điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia kí kết.

2. Hệ thống pháp luật của Việt Nam

1. Hiến pháp.

2. Bộ luật, luật (sau đây gọi chung là luật), nghị quyết của Quốc hội.

3. Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

4. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.

5. Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

6. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

7. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

8. Thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước.

9. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh).

10. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

11. Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt.

12. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện).

13. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện.

14. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã).

15. Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã.

3. Hiện nay, Việt Nam có bao nhiêu bộ luật ?

Ở Việt Nam có các Bộ luật sau:
– Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015;
– Bộ Luật Dân sự 2015;
– Bộ Luật Hàng hải 2005;
– Bộ Luật Hình sự 2015 – Sửa đổi bổ sung 2017;
– Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự 2015;
– Bộ Luật Lao động 2019

4. So sánh giữa Bộ luật và Luật ?

4.1. Giống nhau

Bộ luật và luật đều là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành để cụ thể hóa Hiến pháp nhằm điều chỉnh các loại quan hệ xã hội trong các lĩnh vực hoạt động của xã hội. Các bộ luật và luật này đều có giá trị pháp lí cao (chỉ sau Hiến pháp) và có phạm vi tác động rộng lớn đến đông đảo các tầng lớp nhân dân.

Bộ luật, luật của Quốc hội quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền và nghĩa vụ của công dân. Nói cách khác, bộ luật, luật dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản thuộc các lĩnh vực về đối nội và đối ngoại của quốc gia
Bộ luật, luật có tính chất cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp theo những ngành luật hoặc các lĩnh vực pháp luật chuyên biệt, ví dụ: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình…

Luật được Quốc hội ban hành để quy định về :
+ Tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;

+ Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân mà theo Hiến pháp phải do luật định, việc hạn chế quyền con người, quyền công dân; tội phạm và hình phạt;

+ Chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia, ngân sách nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế;

+ Chính sách cơ bản về văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường;

+ Quốc phòng, an ninh quốc gia;

+ Chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;

+ Hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân; hàm, cấp ngoại giao; hàm, cấp nhà nước khác; huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước;

+ Chính sách cơ bản về đối ngoại;

+ Trưng cầu ý dân;

+ Cơ chế bảo vệ Hiến pháp;

+ Vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội.

4.2. Khác nhau

Tuy nhiên, cũng cần phải phân biệt giữa Bộ luật và Luật.

Luật là các nguyên tắc nhà nước quy định, là những quy chuẩn đạo đức tôn giáo hoặc những khuôn phép tập quán địa phương dựa vào ý chí của giai cấp thống trị hoặc quyền lợi của các tầng lớp xã hội cho phép hoặc cấm đoán những hành vi liên quan đến các mối quan hệ giữa các cá nhân, giữa cá nhân với tổ chức, giữa các tổ chức với nhau, cũng như việc trừng phạt những cá nhân, tổ chức vi phạm hoặc làm trái các quy định mà luật đặt ra.

Trong khoa học pháp lý, bộ luật và luật đều được gọi là đạo luật; sự khác nhau giữa bộ luật và luật thường không nhiều. Tuy nhiên, bộ luật thường điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội rộng lớn và có tính bao quát; bộ luật là “xương sống” của một ngành luật.

Ngoài ra, các bộ luật lớn còn chứa đựng những nguyên tắc chi phối các ngành luật lân cận. Ví dụ: các quy định của Bộ luật Dân sự có thể được viện dẫn trong khi giải quyết các quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình, quan hệ pháp luật thương mại…

Trong khi đó, bộ luật là một dạng luật, có một số khác biệt sau:

– Phạm vi điều chỉnh bao quát và rộng hơn so với 1 luật nào đó

– Nội dung bao hàm và liên quan nhiều lĩnh vực trong xã hội

– Được dẫn chiếu và điều chỉnh các vấn đề mà nội dung của nó không được quy định ở những luật (chuyên ngành) khác.

– Điều chỉnh các dẫn chiếu điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia kí kết

Như vậy, điểm chính để phân biệt giữa “luật” và “bộ luật” chính là phạm vi điều chỉnh của các quy định, nếu điều chỉnh phạm vi rộng, bao quát, nhiều lĩnh vực thì được xem là “bộ luật”, còn điều chỉnh trong phạm vi 1 lĩnh vực chuyên, hẹp hơn thì được xem là “luật”.

Luật LVN Group (tổng hợp & phân tích)