1. Người tham gia tố tụng

Căn cứ vào địa vị pháp lý của những người tham gia tố tụng hình sự, có thể chia thành bốn nhóm chủ yếu sau đây:

– Nhóm những người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo);

– Nhóm người bị tội phạm xâm hại hoặc có quyền, lợi ích liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự (người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án);

– Nhóm người làm chứng và những nhà chuyên môn được mời tham gia hỗ trợ quá trình tố tụng (người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch…);

– Nhóm người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của những người tham gia tố tụng.

Yêu cầu đặt ra đối với việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự là phải rà soát, bổ sung một cách hợp lý quyền của những người này, bảo đảm phù hợp với vị trí của họ trong tố tụng, đồng thời, phải có cơ chế ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm của các cơ quan trong việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đây là cơ sở rất quan trọng nhằm bảo đảm tính công minh của pháp luật, đề cao trách nhiệm của Nhà nước trước nhân dân. Từ quan điểm đó, Bộ luật tố tụng hình sự đã có những điều chỉnh quan trọng nhằm cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn, bảo đảm thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

2. Người bị buộc tội

Thuật ngữ “người bị buộc tội” lần đầu tiên xuất hiện trong Hiến pháp năm 2013 thông qua quy định tại Điều 3. Để cụ thể hóa quy định về người bị buộc tội trong Hiến pháp năm 2013, Bộ luật TTHS năm 2015 đã có nhiều quy định cụ thể liên quan trực tiếp đến người bị buộc tội, trong đó có việc giải thích thuật ngữ “người bị buộc tội” và xác định các quyền, nghĩa vụ của người bị buộc tội.

Điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015 đã đưa ra giải thích (khái niệm) về người bị buộc tội như sau: “Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Có thể thấy, nội hàm của khái niệm người bị buộc tội mới chỉ dừng lại ở hình thức liệt kê với tư cách là các chủ thể tham gia TTHS mà chưa làm rõ được một cách khái quát nội dung về các thành tố tạo nên chủ thể đó.

Có quan điểm cho rằng: Người bị buộc tội là người hoặc pháp nhân thương mại mà cơ quan, người có thẩm quyền, bằng quyết định tố tụng, xác lập tư cách của họ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự khi có căn cứ cho rằng họ đã thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, hoặc đã thực hiện hành vi phạm tội.

Đối với người bị buộc tội, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung những nhóm quyền nhằm giúp họ nắm bắt kịp thời chứng cứ buộc tội làm cơ sở cho việc chuẩn bị bào chữa, như: quyền được các cơ quan tố tụng cung cấp đầy đủ các quyết định liên quan đến việc buộc tội; quyền trình bày lời khai, đưa ra ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai hoặc chứng cứ chống lại mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; quyền đọc, ghi chép bản sao hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra; quyền đưa ra chứng cứ thay vì chỉ có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật như hiện nay… (các điều 58, 59, 60, 61).

3. Người bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án

Theo quy định tại Điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về bị hại thì“ Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.”.

Trong BLTTHS năm 2003 đưa ra khái niệm “Người bị hai” theo đó “Người bị hại là người bị thiệt hại về vật chất, tinh thần hoặc tài sản do tội phạm gây ra. Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản. Nếu người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần thì cha, mẹ, người giám hộ của họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của người bị hại. Trong trường hợp người bị hại chết thì cha, mẹ, vợ, chồng, con của người bị hại tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của người bị hại và có những quyền của người bị hại.”, tuy nhiên trong BLTTHS năm 2015 thuật ngữ “Người bị hại” trong BLTTHS 2003 đã được thay thế bằng thuật ngữ “Bị hại” trong đó khái niệm bị hại mở rộng hơn đối tượng bao gồm công dân và pháp nhân, (BLTTHS năm 2003 quy định người bị hại chỉ có công dân).

Theo như quy định của BLTTH năm 2015 bị hại có các đặc điểm sau đây:

  • Thứ nhất, về chủ thể bị hại bao gồm là cá nhân, pháp nhân, tổ chức;
  • Thứ hai, thiệt hại do tội phạm gây ra được phân chia bao gồm: Cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín. Tuy nhiên, cần lưu ý là hậu quả của sự thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc trong tất cả các trường hợp.
  • Thứ ba, thiệt hại của bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho bị hại. Đây là điều kiện quan trọng để phân biệt giữa bị hại và nguyên đơn dân sự hay các đương sự khác trong vụ án hình sự.
  • Thứ tư, công dân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là bị hại khi và chỉ khi được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận.

Khái niệm về “người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án” thì không được BLTTHS 2003 ghi nhận mà chỉ có quy định về quyền và nghĩa vụ của họ. Vấn đề này đã tồn tại từ rất lâu, ngay khi BLTTHS đầu tiên được ban hành. Đến BLTTHS 2015 có quy định tại khoản 1 Điều 65 như sau: “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.”

Đối với người bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, BLTTHS 2015 bổ sung các quyền nhằm giúp họ bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của mình như: quyền yêu cầu giám định, định giá tài sản; quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ; quyền được thông báo về kết quả giải quyết vụ án; bị hại được đề nghị hình phạt đối với bị cáo thay vì chỉ có quyền đề nghị bồi thường thiệt hại như hiện nay… (các điều 62, 63, 64, 65).

4. Người làm chứng và những nhà chuyên môn

Người làm chứng là người biết các tình tiết có liên quan đến vụ án và được các cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập để khai báo về những sự việc cần xác minh trong vụ án. Lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng để xác định sự thật của vụ án hình sự.

Người làm chứng và người chứng kiện thường bị nhầm lẫn với nhau. Vậy người làm chứng và người chứng kiến khác nhau ở điểm gì?

– Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng. Người làm chứng biết được tình tiết liên quan đến vụ án, tội phạm và được cơ quan có thẩm quyền triệu tập đến làm chứng. Nếu người làm chứng khai báo gian dối hoặc từ chối khai báo, trốn tránh việc khai báo mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự. Cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng làm việc hoặc học tập có trách nhiệm tạo điều kiện để họ tham gia tố tụng.

– Người chứng kiến là người được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu chứng kiến việc tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Người chứng kiến được mời để chứng kiến hoạt động điều tra trong các trường hợp do BLTTHS quy định và có trách nhiệm xác nhận nội dung, kết quả công việc mà người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã tiến hành trong khi mình có mặt và có thể nêu ý kiến cá nhân. Ý kiến này được ghi vào biên bản.

Đối với người làm chứng và những nhà chuyên môn BLTTHS 2015 đã bổ sung một số quyền nhằm phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tố tụng nhanh chóng phát hiện tội phạm, làm sáng tỏ sự thật của vụ án; bên cạnh đó, người làm chứng không chỉ có quyền yêu cầu cơ quan tố tụng bảo vệ bản thân họ mà còn có quyền yêu cầu bảo vệ người thân thích khỏi sự đe dọa của tội phạm (các điều 66, 67, 68, 69, 70).

5. Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

Đồng thời với việc bổ sung quyền của những người tham gia tố tụng, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng: “Phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết” (Điều 8). Việc áp dụng các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân chỉ được giao cho thủ trưởng các cơ quan tiến hành tố tụng. Quy định chặt chẽ căn cứ, điều kiện tiến hành các biện pháp tố tụng nhằm tránh lạm dụng. Bất kỳ sự vi phạm nào trong quá trình giải quyết vụ án đều không thể chấp nhận và cơ quan tiến hành tố tụng sẽ phải đối diện với những chế tài như: chứng cứ đã thu thập sẽ bị tuyên bố vô hiệu; phải tiến hành điều tra, truy tố, xét xử lại; ngoài ra, người tiến hành tố tụng vi phạm còn phải bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự…

Có thể khẳng định rằng, những điều chỉnh nêu trên sẽ góp phần bảo đảm cho hoạt động tố tụng dân chủ hơn, trách nhiệm hơn. Điều này đòi hỏi mỗi cán bộ tố tụng phải thay đổi nhận thức, thói quen, cách làm để kịp thời đáp ứng những yêu cầu mới của luật, góp phần làm nên những giá trị tiến bộ của nền tư pháp nước nhà.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm)