1. Cơ chế bảo vệ những người tham gia tố tụng trong BLTTHS 2003

Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của những người tham gia tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 với nội dung: “Người bị hại, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật” (Điều 7). Tuy nhiên, trong toàn bộ Bộ luật không có bất cứ quy định hoặc cơ chế nào cho việc thực hiện nguyên tắc này. Thực tiễn đấu tranh chống tội phạm thời gian qua cho thấy đây là vấn đề rất nhức nhối và phức tạp, nếu không có cơ chế giải quyết dứt điểm thì nhiều trường hợp người làm chứng, người tố giác về tội phạm sẽ không dám hợp tác với các cơ quan tố tụng hoặc không dám khai báo đầy đủ, trung thực các tình tiết của vụ án vì lo sợ bị trả thù, nhất là đối với các vụ án hoạt động theo kiểu xã hội đen hoặc tội phạm có tổ chức.

2. Nhu cầu phải thiết lập cơ chế bảo vệ những người tham gia tố tụng

Từ thực tiễn trên, một trong những yêu cầu đặt ra đối với quá trình sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự là phải thiết lập cho được cơ chế hữu hiệu nhằm bảo vệ người tham gia tố tụng. Trên tinh thần đó, Bộ luật TTHS 2015 được ban hành đã được bổ sung một chương (Chương XXXIV) quy định đầy đủ các nội dung liên quan đến vấn đề này.

Thứ nhất, quy định những đối tượng được bảo vệ bao gồm: người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại và người thân thích của những người này (Điều 484).

Thứ hai, quy định đầy đủ các biện pháp bảo vệ để các cơ quan tố tụng lựa chọn như: canh gác, bảo vệ; di chuyển và giữ bí mật chỗ ở, chỗ làm việc, học tập; thay đổi tung tích, lý lịch, đặc điểm nhân dạng; răn đe, cảnh cáo, vô hiệu hóa các hành vi xâm hại và các biện pháp khác… (Điều 486).

Thứ ba, quy định chặt chẽ về thời gian áp dụng các biện pháp bảo vệ; trường hợp chấm dứt áp dụng biện pháp bảo vệ phải thể hiện bằng quyết định do Thủ trưởng cơ quan tố tụng ban hành (Điều 488, 489).

Thứ tư, quy định trách nhiệm của cơ quan tố tụng trong trường hợp xét thấy không cần thiết áp dụng biện pháp bảo vệ thì phải giải thích rõ lý do cho người đã yêu cầu, đề nghị biết (Điều 487).

Có thể khẳng định rằng, với việc bổ sung đầy đủ các quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 nhằm bảo vệ những người tham gia tố tụng đã khẳng định một cách nhất quán thái độ và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ nhân dân, để nhân dân có thể tin tưởng và an tâm tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm.

3. Người được bảo vệ

Điều 484 BLTTHS năm 2015 quy định những người được bảo vệ chỉ gồm: (1) Người tố giác tội phạm; (2) Người làm chứng; (3) Bị hại; (4) Người thân thích của người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại. Như vậy, Điều luật này chưa liệt kê đủ người đối tượng cần được bảo vệ.

Với quy định tại các điều 57, 67, 70 Bộ luật TTHS 2015 thì người báo tin về tội phạm, người chứng kiến, người phiên dịch, người dịch thuật và người thân thích của họ cũng thuộc đối tượng được bảo vệ:

– Tại điểm a khoản 1 Điều 57 Bộ luật này quy định cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giữ bí mật việc tố giác, báo tin về tội phạm, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ, người thân thích của họ khi bị đe dọa.

– Tại điểm b khoản 3 Điều 67 Bộ luật này quy định một trong các quyền của người chứng kiến là yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tuân thủ quy định của pháp luật, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa.

– Tại điểm b khoản 2 Điều 70 Bộ luật này quy định người phiên dịch, người dịch thuật có quyền đề nghị cơ quan yêu cầu bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa.

4. Quyền và nghĩa vụ của người được bảo vệ

Những người được bảo vệ theo quy định của BLTTHS năm 2015 không chỉ có quyền yêu cầu, đề nghị được bảo vệ như BLTTHS năm 2003 mà còn được ghi nhận thêm các quyền tố tụng khác được quy định ở khoản 2 Điều 484: Đề nghị được bảo vệ; được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ; được biết về việc áp dụng biện pháp bảo vệ; đề nghị thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp bảo vệ; được bồi thường thiệt hại, khôi phục danh dự, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp trong thời gian bảo vệ. Người được bảo vệ có quyền đề nghị, yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo vệ bằng văn bản hoặc trình bày trực tiếp hoặc thông qua phương tiện thông tin liên lạc nhưng sau đó vẫn phải thể hiện yêu cầu, đề nghị bằng văn bản. Các quy định này tạo điều kiện cho người được bảo vệ có thể đưa ra yêu cầu, đề nghị đến cơ quan có thẩm quyền nhanh chóng, khẩn trương đồng thời lựa chọn được biện pháp bảo vệ phù hợp với mình nhất.

Cùng với quyền yêu cầu, đề nghị được bảo vệ thì khoản 3 Điều 487 BLTTHS năm 2015 quy định nghĩa vụ của người được bảo vệ: Chấp hành nghiêm chỉnh các yêu cầu của cơ quan bảo vệ liên quan đến việc bảo vệ; giữ bí mật thông tin bảo vệ; thông báo kịp thời đến cơ quan có trách nhiệm bảo vệ về những vấn đề nghi vấn trong thời gian được bảo vệ. Quy định về các nghĩa vụ này bảo đảm sự phối hợp giữa người được bảo vệ và cơ quan có trách nhiệm bảo vệ nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ tốt nhất.

5. Thẩm quyền, thủ tục quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ

Mặc dù, người được bảo vệ có thể đưa ra yêu cầu, đề nghị tại bất cứ thời điểm nào của quá trình giải quyết vụ án hình sự khi thấy cần thiết, nhưng thẩm quyền ra quyết định áp dụng các biện pháp bảo vệ được tập trung cho Cơ quan điều tra của Công an nhân dân và Quân đội nhân dân tùy thuộc vụ án được thụ lý, giải quyết tại cơ quan điều tra nào. Thẩm quyền cụ thể thuộc về Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tập trung thẩm quyền cho cơ quan điều tra vì đây là cơ quan có đủ khả năng chuyên môn, nghiệp vụ để kiểm tra căn cứ, đánh giá tính xác thực của đề nghị, yêu cầu bảo vệ. Ngoài ra, đây cũng chính là cơ quan sẽ quyết định biện pháp bảo vệ cũng như phương án bảo vệ cụ thể hoặc thay đổi các biện pháp bảo vệ trong quá trình bảo vệ.

Về thủ tục, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra phải ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ. Quyết định gồm các nội dung chính: Số, ngày, tháng, năm; địa điểm ra quyết định; chức vụ của người ra quyết định; căn cứ ra quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người được bảo vệ; biện pháp bảo vệ và thời gian bắt đầu thực hiện biện pháp bảo vệ.

Quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ được gửi cho người yêu cầu bảo vệ, người được bảo vệ, Viện kiểm sát, Tòa án đã đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ và cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan đến việc bảo vệ .

Cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ phải lập hồ sơ bảo vệ. Hồ sơ bảo vệ gồm: Văn bản đề nghị, yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ; biên bản về việc đề nghị, yêu cầu áp dụng biện pháp bảo vệ; kết quả xác minh về hành vi xâm hại hoặc đe dọa xâm hại tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ; tài liệu về hậu quả thiệt hại đã xảy ra (nếu có) và việc xử lý của cơ quan có thẩm quyền; văn bản yêu cầu, đề nghị thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp bảo vệ; quyết định áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp bảo vệ; tài liệu phản ánh diễn biến quá trình áp dụng biện pháp bảo vệ; văn bản yêu cầu, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân phối hợp bảo vệ; báo cáo kết quả thực hiện biện pháp bảo vệ; quyết định chấm dứt biện pháp bảo vệ; các văn bản, tài liệu khác có liên quan đến việc bảo vệ.

6. Các biện pháp bảo vệ và việc chấm dứt các biện pháp bảo vệ

Điều 486 BLTTHS 2015 quy định gồm các biện pháp sau: Bố trí lực lượng, tiến hành các biện pháp nghiệp vụ, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ và các phương tiện khác để canh gác, bảo vệ; hạn chế việc đi lại, tiếp xúc của người được bảo vệ để bảo đảm an toàn cho họ; giữ bí mật và yêu cầu người khác giữ bí mật các thông tin liên quan đến người được bảo vệ; di chuyển, giữ bí mật chỗ ở, nơi làm việc, học tập; thay đổi tung tích, lý lịch, đặc điểm nhân dạng của người được bảo vệ, nếu được họ đồng ý; răn đe, cảnh cáo, vô hiệu hóa các hành vi xâm hại người được bảo vệ; ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi xâm hại theo quy định của pháp luật; các biện pháp bảo vệ khác theo quy định của pháp luật.

Cơ quan điều tra có thẩm quyền áp dụng phải tổ chức thực hiện ngay biện pháp bảo vệ sau khi ra quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ. Trường hợp cần thiết có thể phối hợp với các cơ quan, đơn vị trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân để thực hiện việc bảo vệ. Việc áp dụng, thay đổi các biện pháp bảo vệ quy định không được làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được bảo vệ.

Khi xét thấy căn cứ xâm hại hoặc đe dọa xâm hại tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ không còn, Thủ trưởng Cơ quan điều tra đã quyết định áp dụng biện pháp bảo vệ phải ra quyết định chấm dứt áp dụng biện pháp bảo vệ. Quyết định chấm dứt áp dụng các biện pháp bảo vệ phải được gửi cho người được bảo vệ, cơ quan đã đề nghị áp dụng biện pháp bảo vệ và cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan đến việc bảo vệ.

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm & Biên tập)