1. Sự cần thiết bảo vệ người chưa thành niên

Xuất phát từ đặc điểm của người chưa thành niên là người chưa có sự trưởng thành đầy đủ về thể chất và nhận thức nên luôn cần được sự quan tâm, bảo vệ đặc biệt của gia đình và xã hội, kể cả trong trường hợp người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên và áp dụng hình phạt đối với họ chỉ được tiến hành trong trường hợp cần thiết, với mục đích chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ các em sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội, trở thành công dân có ích cho đất nước. Đây là quan điểm xuyên suốt trong chính sách bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của Đảng, Nhà nước ta và cũng là mục tiêu hướng tới trong các chuẩn mực quốc tế về quyền trẻ em.

Vấn đề đặt ra đối với việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự là phải đổi mới sâu sắc các thủ tục tố tụng, xây dựng các thủ tục chuyên biệt, thể hiện mức độ ưu tiên để hướng tới bảo đảm lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên. Trên cơ sở đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có nhiều điều chỉnh quan trọng.

2. Những điều chỉnh trong BLTTHS 2015

Thứ nhất, để bảo vệ toàn diện người chưa thành niên, Bộ luật bổ sung thủ tục đối với người làm chứng, người bị hại là người chưa thành niên, thay vì chỉ có thủ tục cho người chưa thành niên phạm tội như quy định trong BLTTHS 2003.

Thứ hai, ngoài việc phải chịu sự chi phối chung của hệ thống 27 nguyên tắc cơ bản quy định tại Chương II, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bổ sung 07 nguyên tắc đặc thù áp dụng đối với quá trình giải quyết các vụ án liên quan đến người chưa thành niên (Điều 414).

Thứ ba, quy định rõ tiêu chuẩn của người được phân công tiến hành tố tụng trong các vụ án này phải đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan người chưa thành niên, có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục đối với người chưa thành niên (Điều 415).

Thử tư, quy định chặt chẽ căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người chưa thành niên nhằm thực hiện khuyến nghị của quốc tế “bắt, giam, giữ trẻ em chỉ là biện pháp cuối cùng khi không còn biện pháp nào khác thích hợp”; theo đó, Bộ luật quy định chỉ được áp dụng trong trường hợp thật cần thiết và có căn cứ xác định việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không có hiệu quả (Điều 419).

Thứ năm, rút ngắn thời hạn tạm giam người chưa thành niên nhằm đẩy nhanh quá trình giải quyết vụ án, tránh những hậu quả tiêu cực có thể ảnh hưởng đến các em do phải tách khỏi môi trường gia đình, gián đoạn việc học hành, cũng như nguy cơ tái phạm do phải tiếp xúc với những ảnh hưởng xấu từ những người bị giam, giữ khác.

Thứ sáu, cho phép áp dụng biện pháp đối chất, nhưng khác với người đã thành niên, Bộ luật quy định rõ chỉ cho phép áp dụng đối chất người chưa thành niên với tư cách là biện pháp cuối cùng, nếu không đối chất thì không thể giải quyết được vụ án nhằm tránh gây tâm lý căng thẳng cho người chưa thành niên (Điều 421).

Thứ bảy, quy định bắt buộc phải có người bào chữa, người đại diện, người bảo vệ quyền lợi tham gia khi cơ quan tố tụng tiến hành lấy lời khai, hỏi cung nhằm tăng tính minh bạch, tạo tâm lý an tâm cho người chưa thành niên.

Thứ tám, quy định chặt chẽ thời gian được phép lấy lòi khai, hỏi cung không quá hai lần trong một ngày và mỗi lần không quá hai giờ nhằm bảo đảm phù hợp với thể trạng và tâm lý của người chưa thành niên (Điều 421).

Thứ chín, quy định việc xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa phải được tiến hành phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển của người chưa thành niên; phòng xử án được bố trí thân thiện, phù hợp với người chưa thành niên (Điều 423).

Thứ mười, nhằm phù hợp với việc đổi mới chính sách hình sự trong Bộ luật hình sự năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự được bổ sung và quy định cụ thể thủ tục áp dụng các biện pháp khiển trách; hòa giải tại cộng đồng; giáo dục tại xã, phường, thị trấn khi cơ quan tiến hành tố tụng xét thấy không cần thiết phải áp dụng trách nhiệm hình sự nhằm đề cao tính hướng thiện trong đường lối xử lý người chưa thành niên (các điều 427, 428, 429).

Có thể nói, “bảo đảm lợi ích tối nhất cho người chưa thành niên” đã được thể hiện sâu sắc trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Điều quan trọng nhất là thông qua mỗi vụ án, giúp các em sớm nhận ra sai lầm để tích cực sửa chữa, có ý thức tôn trọng pháp luật và tôn trọng các quy tắc của đời sống xã hội.

3. Xác định độ tuổi của người bị buộc tội, bị hại là người chưa thành niên

​Về xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu sau: Giấy chứng sinh; Giấy khai sinh; Chứng minh nhân dân; Thẻ căn cước công dân; Sổ hộ khẩu; Hộ chiếu.

Trường hợp các giấy tờ, tài liệu nêu trên có mâu thuẫn, không rõ ràng hoặc không có giấy tờ, tài liệu này thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải phối hợp với gia đình, người đại diện, người thân thích, nhà trường, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc tổ chức, cá nhân khác có liên quan nơi người dưới 18 tuổi học tập, lao động, sinh hoạt trong việc hỏi, lấy lời khai, xác minh làm rõ mâu thuẫn hoặc tìm các giấy tờ, tài liệu khác có giá trị chứng minh về tuổi của người đó.

Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp nhưng chỉ xác định được khoảng thời gian tháng, quý, nửa đầu hoặc nửa cuối của năm hoặc năm sinh thì tùy từng trường hợp cụ thể cần căn cứ khoản 2 Điều 417 BLTTHS để xác định tuổi của họ.

4. Lấy lời khai, hỏi cung người tham gia tố tụng là người chưa thành niên

Trước khi lấy lời khai, hỏi cung người tham gia tố tụng là người dưới 18 tuổi, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo trước trong thời gian hợp lý cho người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ biết về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung để những người này tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.

Việc lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị hại, người làm chứng dưới 18 tuổi có thể thực hiện tại nơi học tập, lao động và sinh hoạt của người đó hoặc nơi tiến hành điều tra. Việc hỏi cung bị can dưới 18 tuổi có thể thực hiện tại nơi cư trú của người đó hoặc nơi tiến hành điều tra. Trường hợp lấy lời khai, hỏi cung tại nơi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử thì phải sắp xếp, bố trí phòng lấy lời khai, hỏi cung bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý người dưới 18 tuổi.

Trường hợp lấy lời khai người bị hại dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán thì phải ưu tiên địa điểm lấy lời khai tại nơi cư trú của người đó; nếu không có nơi cư trú thì phải tiến hành tại cơ sở chăm sóc trẻ em theo quy định của pháp luật.

Việc lấy lời khai, hỏi cung phải theo đúng trình tự, thủ tục, thời gian, bảo đảm sự tham gia của người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi theo quy định tại Điều 183, Điều 421, các điều luật khác có liên quan của BLTTHS và Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT- BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 01/01/2018 hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

Trường hợp vụ án có người bị hại dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán thì việc lấy lời khai của họ phải được tiến hành ngay sau khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm.

Khi tiến hành lấy lời khai, hỏi cung, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có thái độ thân thiện, nhẹ nhàng, sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu, phù hợp với độ tuổi, giới tính, khả năng nhận thức của họ; xem xét áp dụng các biện pháp phù hợp nhằm giảm đến mức thấp nhất thời gian, số lượng lần lấy lời khai, hỏi cung và phải tạm dừng ngay việc lấy lời khai, hỏi cung khi người dưới 18 tuổi có biểu hiện mệt mỏi, ảnh hưởng đến khả năng khai báo chính xác, đầy đủ.

5. Bảo đảm việc tham gia tố tụng của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo cho người bị buộc tội, người bị hại dưới 18 tuổi, người đại diện hoặc người thân thích của họ về việc mời người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ khi tham gia tố tụng; trường hợp những người này không mời thì tùy từng trường hợp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng giải quyết như sau: Chỉ định người bào chữa nếu thuộc trường hợp quy định tại Điều 76 BLTTHS; Yêu cầu Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước cử người thực hiện trợ giúp pháp lý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 của Thông tư này; yêu cầu cơ quan, tổ chức có người bị hại là thành viên cử người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ.

Người bào chữa cho người bị buộc tội dưới 18 tuổi phải tham gia trong các giai đoạn tố tụng của vụ án, trừ các trường hợp sau: Người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ từ chối hoặc đề nghị thay đổi người bào chữa; Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hủy bỏ việc đăng ký bào chữa theo quy định tại khoản 7 Điều 78 BLTTHS; Người bào chữa có lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan không thể bào chữa.

Trường hợp đã thay đổi người bào chữa được chỉ định mà người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ vẫn từ chối người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng lập biên bản về việc từ chối, đưa vào hồ sơ vụ án và chấm dứt việc chỉ định người bào chữa…

LUẬT LVN GROUP (Sưu tầm)